trinhqtoan
11-06-2012, 09:12 PM
Chương 1: Ở trại tế bần
Đứa trẻ được sinh ra ở một Trại tế bần và mẹ nó, người mà không ai biết tên là gì, chỉ có đủ thời gian để nhìn nó trước khi nhắm mắt.
Đứa trẻ tội nghiệp gào khóc hết cả hơi. Giá như nó có thể biết được rằng nó chỉ có một mình ở trên đời, rằng nó mồ côi, rằng nó sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị đối xử tồi tệ, chắc hẳn nó còn gào khóc to hơn nữa.
Đứa trẻ được đặt tên là Oliver Twist. Nó không ở lại lâu trong Trại tế bần mà bị gửi đến nhà một bà già tên là Mann, người thường nhận được một khoản tiền nhỏ cho mỗi đứa trẻ mà bà có trách nhiệm.
Oliver Twist vừa tròn chín tuổi. Đó là một cậu bé xanh xao, gầy gò và nhỏ bé.
Mặc dù phải chịu nhiều thiếu thốn và bị đối xử tồi tệ trong ngôi nhà người ta sắp xếp cho nó, cậu bé vẫn có một tính cách lanh lợi và cương trực.
Hôm đó, em bị nhốt vào hầm than cùng với hai đứa bạn khác, do đã dám liều lĩnh phàn nàn rằng mình đói.
Bỗng nhiên, bà Mann, chủ nhân khu nhà đó, ngạc nhiên bởi sự xuất hiện đột ngột của viên thanh tra Trại tế bần, ông Bumble, đang cố mở cánh cửa của khu vườn.
- Qúy hóa quá! Ngài Bumble đấy à? - Bà Mann vừa nói vừa nhoài người ra cửa sổ, vờ tỏ vẻ rất vui mừng. - Nhanh lên, Suzanne, cho ba thằng nhóc ra khỏi hầm than và rửa ráy thật nhanh cho chúng.
Đừng để cho ông Bumble nhìn thấy chúng trong tình trạng thế này. Thưa ngài Bumble, tôi thật lấy làm sung sướng được gặp ngài.
ông Bumble là một người dễ nổi nóng. Ông bắt đầu lắc mạnh chốt cửa và đập ầm ầm vào cánh cửa.
Trong thời gian đó, tụi trẻ được đưa ra khỏi hầm than và nhanh chóng rửa ráy sạch sẽ.
- Tôi đây. - Bà Mann nói. - Mời ngài vào, thưa ngài Bumble.
Bà Mann dẫn ngài thanh tra Trại tế bần vào một căn buồng nhỏ lát gạch. Bà ta mang đến cho ngài thanh tra một cái ghế tựa rồi nhanh nhảu cầm mũ và gậy của ông đặt lên bàn. Ngài Bumble lau cái trán lấm tấm mồ hôi. Ngụm rượu bà Mann mời khiến ông hết nhăn nhó..- Bà Mann, bà có cho lũ trẻ ăn cháo không đấy? - Ông Bumble hỏi.
- Có, tôi có cho chúng ăn. - Bà ta nói. - Mặc dù cháo cũng đắt đấy. Nhưng tôi không thể nhìn những đứa trẻ thân thương ấy phải khổ sở. Ngài thấy đấy, tôi không thể kìm lòng được.
- Tốt, - Ông Bumble nói, - tốt lắm, bà là một phụ nữ trung hậu, bà Mann ạ. Chúng tôi đã làm đúng khi giao những đứa trẻ cho bà. Nhưng tôi đến đây để nói về công chuyện. - Ngài thanh tra vừa nói vừa rút từ túi quần ra một cái ví da nhỏ. - Đứa trẻ được đặt tên thánh là Oliver Twist đến nay đã chín tuổi...
- Một đứa trẻ thật tử tế. - Bà Mann vừa nói vừa chùi mắt trái bằng góc chiếc tạp dề của mình.
- Dù đã trao giải thưởng mười bảng Anh và những cố gắng to lớn của Trại tế bần, - Ông Bumble nói, - nhưng vẫn không thể tìm ra cha đứa trẻ cũng như họ tên bà mẹ quá cố của nó.
Bà Mann rất ngạc nhiên, hỏi sau một hồi suy nghĩ:
- Nhưng làm thế nào mà nó lại có một họ được nhỉ?
- Chính tôi đã nghĩ ra đấy chứ. - Ngài thanh tra vừa nói vừa vươn thẳng mình rất tự hào.
- Ông ư, thưa ngài Bumble?
- Chính tôi đấy, bà Mann ạ. Tôi đặt họ cho lũ trẻ tìm thấy được theo thứ tự chữ cái abc, đứa gần đây đến chữ S, tôi đặt cho nó họ Swubble, và đứa này đến chữ T, tôi đặt là Twist. Những đứa tiếp theo là Unwin, Vilkent và tiếp tục cho đến chữ Z. Khi đến chữ cái này, tôi làm lại từ đầu bảng chữ cái.
- Ông đã nghĩ kỹ thật đấy. - Bà Mann nói.
- Đúng vậy, - Ông thanh tra nói vẻ mãn nguyện về lời khen này. Uống hết cốc rượu, ông ta tiếp lời.
- Bây giờ Oliver quá lớn để ở lại đây, hội đồng đã quyết định cho nó quay về trại và tôi đến đây để tìm nó. Dẫn nó ra đây cho tôi!
- Ông sẽ gặp nó ngay thôi. - Bà Mann nói và rời khỏi phòng. - Trong lúc đó, Oliver đã được cọ rửa sạch lớp cáu ghét bám đầy mặt đầy tay, và được đưa ngay vào gian phòng ông Bumble đang ngồi.
- Oliver, hãy chào ngài đây. - Bà Mann nói.
Oliver kính cẩn cúi rạp mình chào ông Bumble.
- Cháu có muốn đi cùng với ta không, Oliver?
- Bà Mann không đi cùng với cháu ạ? - Cậu bé Oliver tội nghiệp hỏi.
- Không, không thể được, nhưng thỉnh thoảng bà ấy sẽ đến thăm cháu..Oliver cảm thấy nhẹ nhõm khi rời xa bà Mann nhưng dù còn rất nhỏ, em cũng đủ ý thức để giả vờ rất buồn rầu. Chẳng khó khăn lắm đối với đứa trẻ tội nghiệp để làm rơi nước mắt. Cái đói cùng những đòn roi mới nhận được tỏ ra thật có ích khi người ta muốn khóc và Oliver đã làm điều đó theo cách tự nhiên nhất.
Bà Mann hôn thằng bé và cho nó cái đáng giá hơn nụ hôn là một lát bánh mì phết bơ để nó không có vẻ quá đói khát khi đến Trại tế bần. Oliver được ông Bumble đưa ra khỏi nơi đáng sợ này, nơi mà không bao giờ có một lời nói hay một ánh mắt yêu thương tô điểm cho những năm tháng ấu thơ buồn bã của nó. Tuy nhiên, nó cũng nức nở khóc khi cánh cửa khép lại sau lưng, bởi vì dù những người bạn đồng hành bé nhỏ bất hạnh mà nó rời xa có khốn khổ đến mấy, đó cũng là những người bạn duy nhất nó từng quen biết. Lần đầu tiên nó cảm thấy thật đơn độc trên thế giới này.
Oliver bước qua ngưỡng cửa Trại tế bần chưa đầy mười lăm phút, và chỉ mới nuốt xong miếng bánh thứ hai thì ông Bumble quay lại bảo nó rằng hôm đó là ngày họp hội đồng và nó phải đến đấy trình diện.
Oliver, người chưa từng có một ý tưởng cụ thể nào về cái được gọi là hội đồng, rất đỗi ngạc nhiên về cái tin đó, không biết là mình nên cười hay nên khóc. Ông Bumble cầm gậy đập nhẹ lên đầu nó để nó chú ý và đập cái nữa lên lưng để nó nhanh nhẹn lên. Ông ta ra lệnh cho nó đi theo và đưa nó vào một gian phòng quét vôi trắng có khoảng một chục ngài to béo đang ngồi quanh một chiếc bàn. Một ông thân hình mập mạp béo tốt, có bộ mặt tròn và ửng đỏ, ngồi trong một chiếc ghế bành được kê cao hơn những ghế khác.
- Chào hội đồng đi! - Ông Bumble nói.
Oliver chùi hai ba giọt nước mắt và cúi chào.
- Cậu bé, họ của cháu là gì? - Ông ngồi trong chiếc ghế bành hỏi.
Oliver sợ hãi khi nhìn thấy nhiều ông đến như vậy nên cứ câm lặng. Ông Bumble lại nện lên lưng cậu bé một lần nữa khiến nó bật khóc, nó liền trả lời rất khẽ bằng một giọng run rẩy. Thế là một ông mặc áo gilê trắng nói rằng thằng bé này ngu ngốc, cần có biện pháp tuyệt vời để mang lại cho nó một chút tự tin và để nó thoải mái!
- Hãy lắng nghe ta, cậu bé, - ngài chủ tịch nói.
- ta cho rằng cháu biết là mình mồ côi.
- Thế là thế nào ạ? - Thằng bé đáng thương hỏi.
- Thằng bé này quả là ngu ngốc, tôi dám chắc điều đó. - Ông mặc áo gilê trắng quả quyết nói..- Suỵt! - Ông nói đầu tiên tiếp lời. - Cháu biết rằng cháu không có cả bố lẫn mẹ và cháu được nuôi nấng bằng chi phí của giáo khu chứ?
- Vâng, thưa ngài. - Oliver trả lời và cay đắng nức nở.
- Tốt! - Ông có gương mặt đỏ đắn nói. - Cháu ở đây để được giáo dục và học một nghề có ích.
Kể từ ngày mai, cháu sẽ bắt tay vào làm việc.
Oliver quay lại Trại tế bần như vậy đó. Nó ngủ trên một chiếc giường rất cứng trong căn phòng lớn của trại.
Phòng ăn của bọn trẻ là một phòng lớn lát gạch, phía cuối phòng có đặt một cái chảo, nơi người phụ trách trại đeo tạp dề và được một bà già phụ giúp phát cháo yến mạch vào giờ ăn.
Mỗi đứa trẻ được nhận một tô nhỏ yến mạch, không bao giờ hơn, trừ những ngày lễ có thêm một mẩu bánh mì. Những cái bát này chẳng bao giờ cần lau rửa, những đứa trẻ đã dùng thìa vét nhẵn nhụi bát của mình cho đến khi nó lại sáng loáng lên.
Thường thường, trẻ con ăn rất ngon miệng, Oliver Twist và những người bạn của em phải chịu đựng sự hành hạ của cái đói trong ba tháng. Rốt cục thì cái đói này khiến một cậu bé lớn hơn so với tuổi của mình và không quen với cảnh sống như vậy bị thác loạn đến mức em nói cho bạn bè hiểu rằng nếu không được thêm một suất yến mạch mỗi ngày, e rằng một đêm nào đó em sẽ ăn sống nuốt tươi cậu bé nằm chung giường với em, cậu này ít tuổi và yếu đuối. Sau đó, chúng thảo luận, chúng bốc thăm để biết bữa tối nay ai phải đi xin trưởng trại thêm một khẩu phần nữa. Cái thăm rơi vào Oliver Twist.
Tối đến, những đứa trẻ ngồi vào chỗ của mình, cuối bữa ăn, Oliver tiến gần đến trưởng trại:
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ.
Trưởng trại, một người đàn ông béo tốt, tái mặt đi sửng sốt. Ông ta nhìn nhiều lần thằng bé nổi loạn, sau đó ông dựa người vào chảo cho vững.
Bà già giúp việc ngẩn người kinh ngạc và bọn trẻ thì ngẩn người vì kinh hãi.
- Thế nào? - Trưởng trại nói, giọng lạc hẳn đi.
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ. -Oliver trả lời.
Trưởng trại vụt vào đầu Oliver một nhát muôi, siết chặt nó trong tay và hét to gọi ông Bumble.
Hội đồng đang trong buổi họp long trọng, thì ông Bumble thở hổn hển, chạy vội vào phòng, nói với ngài chủ tọa:
- Thưa ngài Limbkins, tôi xin lỗi ngài. Oliver lại xin thêm cháo..Thật là sửng sốt. Sự ghê sợ hiện lên mọi gương mặt.
- Nó lại xin thêm nữa à? - Ngài Limbkins nói.
- Tôi phải hiểu rằng nó lại xin thêm thức ăn nữa ư?
- Vâng, thưa ngài. - Ông Bumble trả lời.
- Đứa trẻ này rồi ra sẽ khiến người ta phải treo cổ nó. - Ông mặc áo gilê trắng nói. - Đúng vậy, đứa trẻ này rồi sẽ bị treo cổ.
Sau khi phạm cái tội không thể tha thứ được là xin thêm yến mạch, Oliver bị giam tám ngày trong ngục tối chật hẹp, nơi mà lòng nhân từ và sự khôn ngoan của hội đồng đưa nó vào. Em khóc cay đắng suốt nhiều ngày liền và khi đêm đến, em đặt đôi bàn tay nhỏ bé của mình lên mắt để khỏi nhìn thấy bóng đêm và thu mình trong một góc cố thiếp đi.
Một ngày kia, người ta quyết định giao em cho một thợ nạo ống khói, người đã từng có tiếng làm chết nhiều cậu học việc của mình.
Mọi thủ tục đã làm xong thì viên pháp quan, người phải điền chữ ký cuối cùng, cảm thấy ít nhiều băn khoăn khi nhìn thấy nét mặt hốc hác của Oliver, em thực sự hãi hùng vì viễn cảnh phải sống dưới mệnh lệnh của ông thợ nạo ống khói.
Oliver Twist được gửi trả lại Trại tế bần và ông Limbkins thốt lên khi trông thấy em quay lại:
- Thằng bé sẽ bị treo cổ thôi, tôi đoán chắc điều đó.
- Chúng ta phải làm gì với thằng bé này đây?
- Mọi người trong hội đồng hỏi lẫn nhau. - Giá như chúng ta có thể đuổi nó đi xa làm thủy thủ.
Nhưng chẳng có một viên thuyền trưởng nào muốn nhận nó.
Cuối cùng, Oliver Twist cũng được một ông bán quan tài chấp nhận, ông Sowerberry, người muốn dạy nghề nghiệp cho nó.
Một lần nữa, Oliver đi cùng ông Bumble đến chỗ ở mới của mình. Cậu bé tự đấm ngực, nức nở và nhìn ông Bumble với vẻ lo âu. Ông này ngạc nhiên nhìn vẻ mặt thảm hại và buồn bã của cậu bé, ông ho hai ba tiếng như một người bị khan giọng, lầu bầu trong kẽ răng về chứng ho đáng bực mình, sau đó bảo Oliver lau khô mắt và hãy ngoan ngoãn lên. Rồi cầm lấy tay em ông tiếp tục lặng lẽ đi.
ông đóng áo quan vừa mới đóng cửa hàng và đang ngồi ghi chép vài khoản thu nhập vào quyển sổ tính toán của mình, dưới ánh sáng mờ của ngọn nến xấu thì ông Bumble bước vào.
- à, ông chính là ông Bumble đấy ư? - Ông ta vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên và ngừng viết..- Không ai khác, ông Sowerberry này, tôi mang đến cho ông đứa trẻ đấy. - Viên thanh tra trả lời.
Oliver cúi chào.
- à, đây là đứa trẻ đã được nói đến phải không.
- Người chuyên phụ trách ma chay cất tiếng và nhấc ngọn nến lên để nhìn Oliver kỹ hơn.
Bà Sowerberry bước ra từ một phòng nhỏ sau cửa hiệu, đó là một người đàn bà thấp bé, gầy còm, khô khan, một mụ đàn bà độc ác thật sự.
- Này em yêu, - Ông Sowerberry nói với vẻ tôn kính. - đây là đứa trẻ ở Trại tế bần mà tôi đã nói với mình.
Oliver lại cúi chào lần nữa.
- Chúa ơi! Sao mà nó gầy thế! - Bà vợ thốt lên.
- Quả đúng vậy, nó không khỏe. - Ông Bumble trả lời và nghiêm khắc nhìn Oliver như thể đấy là tội của em. - Phải thừa nhận rằng nó không khỏe nhưng rồi nó sẽ lớn lên, thưa bà Sowerberry, nó sẽ lớn lên.
- Vâng, - bà ta nói với vẻ cau có, - nhờ vào đồ ăn thức uống của chúng tôi chứ gì. Còn kiếm được gì hơn từ những đứa trẻ ở Trại tế bần? Bao giờ chúng cũng gây tốn kém hơn giá trị thực của mình. Nào, bộ xương nhỏ, hãy xuống đây!
Sau những lời nói trên, bà ta mở một cánh cửa, đẩy Oliver xuống một cái cầu thang thẳng đứng, dẫn đến một căn hầm tối và ẩm ướt, sát cạnh chỗ để củi mà người ta gọi là bếp, nơi có một con bé bẩn thỉu, đi đôi giày mòn gót, với đôi tất thô màu xanh rách bươm.
- Charlotte, - bà Sowerberry đi theo sau Oliver nói, - hãy cho cậu bé này vài thứ mà chúng ta cất phần Trip, nó đã không quay về nhà cả ngày hôm nay, vậy nó sẽ không cần đến chỗ thức ăn đó. Ta cho rằng cậu sẽ không cảnh vẻ chứ, nhóc con?
Oliver mắt sáng lên vì ý nghĩ sẽ được ăn thịt, có thể chết được vì thèm muốn ngấu nghiến thức ăn đó, trả lời không ạ, và một đĩa thức ăn thừa tồi tệ được đặt trước mặt em. Cậu bé lao đến ngốn ngấu đĩa thức ăn thừa mà con chó đã chê không thèm ăn.
- Được rồi! - Bà ta nói khi Oliver ăn xong bữa tối của mình, bà ta đã chứng kiến cảnh đó với sự ghê sợ lặng lẽ, kinh hoảng vì sự ngon miệng của cậu bé.
- Đi với tạ - Bà nói tiếp.
Bà ta cầm một cây đèn bẩn, đầy khói và dẫn em lên cầu thang.
- Giường của cậu nằm phía dưới quầy hàng. Ta cho rằng cậu không sợ khi phải nằm giữa những.chiếc áo quan chứ? Vả lại, dù cậu có thích điều đó hay không, cậu cũng sẽ không ngủ nơi khác được.
Oliver không đáp lại và ngoan ngoãn theo sau bà chủ mới.
Còn lại một mình trong cửa hàng đóng áo quan, Oliver đặt cây đèn lên một chiếc ghế dài, đưa mắt rụt rè nhìn xung quanh với một cảm giác hoảng sợ.
Sớm hôm sau, cậu bé bị đánh thức bởi tiếng chân đạp mạnh giận dữ lặp đi lặp lại hai mươi lăm lần phía ngoài cửa hiệu, trong khi cậu bé vội vàng mặc áo quần. Chỉ khi cậu bắt đầu kéo chốt cửa thì tiếng chân mới ngừng đạp và có tiếng nói vọng vào.
- Mày có mở cửa ra không? - Ai đó hét lên.
- Vâng, thưa ông, ngay lập tức. - Oliver vừa trả lời vừa kéo chốt và xoay chìa trong ổ khóa.
- Mày là đứa học việc mới ở đây phải không?
- Tiếng nói vọng vào qua lỗ khóa.
- Vâng, thưa ông. - Oliver trả lời.
- Mày bao nhiêu tuổi?
- Mười bốn thưa ông.
- Thế thì tao phải quở trách mày mới được.
Oliver mở cửa, tay run run.
Cậu bé nhìn quanh phố, bên phải, bên trái, nghĩ rằng người nói chuyện với mình qua lỗ khóa chắc đã đi loanh quanh vài bước cho ấm người. Bởi vì em không thấy ai ngoài một cậu to xác của trường từ thiện, đang ngồi trên một cột mốc trước nhà và đang bận ăn một miếng bánh mì quệt bơ.
- Xin lỗi anh, - cuối cùng Oliver cất lời khi không trông thấy một người khách nào khác, -chính anh đã gõ cửa à?
- Tao đạp chân đấy chứ. - Anh kia trả lời.
- Anh cần một chiếc áo quan chăng? - Oliver hỏi rất ngây thơ.
Anh chàng tỏ ra bực bội.
- Chắc mày không biết ta là ai rồi, kẻ mồ côi đáng ghét kia?
- Không, thưa anh. - Oliver trả lời.
- Ta là ông Noé Claypole, - anh ta tiếp lời, -và mày là kẻ phụ tá cho tạ Nào, xê ra.
Noé Claypole bồi cho Oliver một cú đá và bước vào cửa hiệu với vẻ đàng hoàng trang nghiêm, cốt mang lại cho mình vẻ quan trọng.
- Này, Noé, lại gần lửa đi, - Charlotte nói, -tôi đã lấy cho anh từ bữa trưa của ông chủ một miếng mỡ lá rồi đấy! Còn Oliver, hãy ăn mẩu bánh mì này đi!
Cả hai liếc mắt khinh bỉ nhìn Oliver đáng thương đang ngồi run lập cập trên một cái hòm và ăn phần bánh mì rắn câng còn lại mà mọi người đặc biệt dành cho nó..Noé không phải là một đứa trẻ nhặt được.
Mẹ nó là thợ giặt còn bố nó, cựu chiến binh, nát rượu, ra khỏi quân ngũ với một chân gỗ. Noé đã từng phải chịu đựng nhiều lời chửi rủa của những cậu bé cửa hiệu kế bên. Giờ đây, sự may mắn đã đặt một kẻ mồ côi đáng thương, không họ tên trên con đường của nó và nó sẽ đem cậu bé này ra trả hận.
Mặc dù bị đối xử tàn tệ và buộc phải tham dự vào nhiều cảnh tang tóc, Oliver Twist vẫn tận tình phục vụ Ông chủ của mình.
Em đi theo những đám tang và trong những dịp như vậy, em đội một chiếc mũ gắn băng tang, tay cầm gậy đen. Tất cả mọi người đều mãn nguyện về anh chàng phu đám trẻ tuổi này, tuy nhiên không ai biểu lộ chút đồng cảm nhỏ nhặt nào đối với em.
Sau một tháng học việc, Oliver được xác định là thợ học nghề, lúc đó là mùa những nạn dịch.
Và trong vài tuần lễ, Oliver đã học được nhiều kinh nghiệm. Em vẫn tiếp tục chịu sự đàn áp của Noé Claypole, luôn ghen tị về bộ đồng phục của Oliver.
Một hôm, Oliver và Noé cùng đi xuống bếp vào giờ ăn tối quen thuộc để thưởng thức một miệng thịt cừu nhỏ. Charlotte đi ra ngoài và anh chàng Noé Claypole cho rằng mình chẳng thể giết thời gian thú vị hơn ngoài cách giày vò cậu bé Oliver.
- Mẹ của mày sao rồi? - Noé hỏi.
- Bà ta chết rồi. - Oliver trả lời. - Tôi xin anh đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.
Cậu bé đỏ mặt khi thốt lên những lời đó. Em thở gấp và Noé cho rằng em sắp òa khóc, bởi vậy nó quay lại đề tài đó.
- Mẹ mày chết vì lý do gì? - Noé hỏi.
- Vì thất vọng, đó là những gì mọi người nói với em. - Oliver trả lời.
- Dù sao thì mẹ mày chết đi là hơn. Chắc chắn mẹ mày là một tên tội phạm. Mẹ mày đáng ra phải chịu một kết cục tù tội hay bị treo cổ.
Mặt đỏ rực lên, Oliver lao đến, hất đổ ghế và bàn, tóm lấy họng Noé, lắc mạnh với vẻ giận dữ điên cuồng đến nỗi răng em đập vào nhau và thu mọi sức lực, em đánh nó một cú mạnh đến nỗi khiến nó ngã nhào xuống đất.
Chỉ một lát trước đây, đứa trẻ này dù bị bao sự đối xử đè nặng vẫn hết sức nhu mì nhưng cuối cùng thì lòng dũng cảm cũng trỗi dậy. Sự lăng nhục xúc phạm đến linh hồn mẹ khiến em phát khùng, tim em đập mạnh. Trong em tất cả đã thay đổi, giờ đây em nhìn kẻ hèn hạ vừa ngược đãi mình.đang nằm dài dưới chân và thách thức nó với một nghị lực mà chính em chưa hề biết đến trước đây.
- Có kẻ giết người! - Noé la lên. - Charlotte ơi, bà ơi! Tên học việc đang giết tôi! Cứu với! Oliver bị điên rồi!
Charlotte và bà Sowerberry lao đến đánh em một trận nhừ tử. Họ nhốt Oliver đáng thương vào một căn hầm khiến em vô cùng hoảng sợ.
- Chúng ta sẽ làm gì với kẻ điên khùng này? -Bà Sowerberry hỏi. - Gọi cảnh sát hay cận vệ? Hay có thể là ngài thanh tra Trại tế bần? Ta cho rằng ý nghĩ này hay đấy. Noé, hãy chạy nhanh đến Trại.
Mắt của cháu không bị hỏng đấy chứ, và hãy dẫn ngài Bumble lại đây. Nhanh lên!
Noé Claypole nhảy ba bước đến Trại và nó khích động tất cả mọi người. Nó không ngừng la lên:
- Oliver Twist muốn giết tôi. Nó còn muốn giết bà chủ của mình nữa. Ôi, tôi đau biết bao!
Quyết định phải trừng trị Oliver được đưa ra ngay lập tức và ông Bumble nhận được lệnh không được nương nhẹ cho tên nổi loạn trẻ tuổi này, nó phải chịu một trận đòn nhừ tử.
ông ta đến nhà ông Sowerberry ngay lập tức.
Oliver vẫn chưa bình tâm được, em hét như một kẻ bị ma ám và giận dữ đạp vào cánh cửa hầm.
- Thả tôi ra! Thả tôi ra!
- Cháu không nhận ra giọng ta ư Oliver? - Ông Bumble hỏi.
- Không! - Oliver ương ngạnh khẳng định.
Một câu trả lời thật khác với những gì mình chờ đợi và quen nhận khiến ông Bumble phần nào lúng túng. Ông bước ra xa ổ khóa cửa, vươn thẳng người, im lặng kinh ngạc và nhìn từng người đang có mặt.
- Ồ ngài biết đấy, thưa ngài Bumble, nói với ngài như vậy chắc hẳn nó bị điên rồi. - Bà Sower-berry nói.
- Đó không phải là sự điên rồ. - Ông Bumble trả lời. - Đó là do thức ăn.
- Gì cơ! - Bà Sowerberry la lên.
- Do thức ăn. - Ông Bumble đáp với vẻ rất nghiêm túc. - Bà đã cho nó ăn quá nhiều.
- Đó là kết cục của lòng quá nhân từ đấy. - Bà Sowerberry nói.
ông Bumble thấy không nên thả ngay thằng quỷ con này ra, nó có vẻ rất nguy hiểm.
Cuối cùng, cậu bé cũng bị lôi cổ ra giữa ban ngày. Mọi người chửi mắng em, nguyền rủa linh hồn mẹ em và bắt đầu đánh tới tấp lên thân thể.nhỏ bé đáng thương của em, sau đó người ta ra lệnh cho em quay lại giường.
Trong căn phòng nhỏ bé u ám và lạnh lẽo của mình, Oliver tha hồ nghĩ ngợi về cuộc đời buồn khổ mình đang sống. Hôm nay, họ đã đối xử vượt quá sức chịu đựng của em. Điều đó không thể kéo dài hơn nữa. Em sẽ bỏ ra đi!
---->Tự động bổ sung bài viết <-----
Chương 2: Chạy trốn tới Luân Đôn
Khi mặt trời vừa ló, Oliver dậy và kéo chốt cửa. Em lưỡng lự giây lát. Ra đi ư? Đúng vậy, cuộc sống quá cực nhọc. Em sẽ đi đâu bây giờ? Rẽ phải hay rẽ trái? Em nhớ lại đã từng thấy những xe chở hàng bốn bánh leo lên đồi khi chúng ra khỏi thành phố. Em đi theo hướng ấy và chẳng mấy chốc đến một lối mòn nhỏ xuyên qua cánh đồng. Em biết rằng lối mòn này, đi một chút sẽ dẫn ra đường cái.
Em bước lên đường cái.
Cột mốc nơi em ngồi nghỉ chân chỉ rõ rằng Luân Đôn cách đó tám mươi cây số. Tại sao em lại không thử vận may ở thủ đô nhỉ? ở nơi đó ít ra em cũng được an toàn. Không ai, ngay cả ông Bumble có thể phát hiện ra em. Khi còn ở Trại tế bần, mọi người đã từng nói với em về Luân Đôn, người ta đã khẳng định với em rằng trong thành phố này có rất nhiều cơ hội để kiếm tiền.
Không có gì phải lưỡng lự nữa, đó là nơi em phải đến. Em đứng dậy, lòng tràn đầy dũng cảm..Em lại nhanh nhẹn lên đường, nhưng em không tưởng tượng được tất cả những gì em phải chịu đựng trước khi đạt được mục đích của chuyến du hành.
Trong túi đồ của mình, em có một mẩu bánh mì, một chiếc áo sơ mi cũ, hai đôi tất và một ít tiền mà một ngày nọ, sau một đám tang em đã nhận được.
Oliver bước nhanh chân. Những cây số này tiếp nối những cây số khác nhưng thành phố lớn vẫn còn rất xạ Đôi khi, Oliver đói và khát, lúc đó em nhấm nháp một mẩu bánh mì và hỏi xin một cốc nước ở những túp lều tranh bên đường.
Bàn chân em bắt đầu sưng phồng lên và đôi khi bắp chân yếu ớt đến nỗi chúng trở nên run rẩy.
Đêm xuống, em vào một đồng cỏ và thu mình dưới chân một đụn cỏ khộ Cơn gió buồn rầu, rít trên cánh đồng vắng vẻ khiến em hơi sợ nhưng em thiếp đi nhanh chóng và vì thế quên đi những khó nhọc của mình.
Sáng dậy, em cảm thấy lạnh cóng cả người. Đến ngôi làng đầu tiên, em mua bánh mì. Hôm đó em chỉ đi được vài cây số và khi màn đêm bao phủ, đôi bàn chân em rướm máu.
Một đêm nữa trôi qua ngoài trời, thời tiết lạnh và ẩm ướt cuối cùng làm em kiệt sức. Em lê bước tiến lên.
Gặp một nhà trọ, Oliver nhìn mọi người qua lại một cách rất thảm hại cho tới khi ông chủ ra lệnh cho đầy tớ của mình đuổi thằng bé khốn cùng này đi. Nơi khác, người ta dọa thả chó ra đuổi em hoặc dọa giao em cho chính quyền địa phương.
Điều đó đủ làm em chạy trốn thật nhanh.
Em lại tiếp tục lên đường và hỏi xin một chút bánh mì ở những nơi có thể, vì ở nhiều cổng làng, em kinh hãi đọc những biển thông báo rằng người nào đi ăn xin sẽ bị giam vào ngục.
Em còn phải ngủ nhiều lần nữa ngoài trời, và sức em bắt đầu cạn kiệt nghiêm trọng. Chắc chắn rằng nếu không có lòng tốt của một người gác chắn đường và một bà già thì những nỗi đau khổ của Oliver đã bị rút ngắn lại như bà mẹ đáng thương của em. Em tới một thành phố nhỏ tên là Barnet.
Oliver Twist, người đầy bụi, ngồi bệt xuống những bậc thềm lạnh lẽo như một kẻ ăn mày. Chính lúc đó, em làm quen được với một nhân vật lạ lùng đang thích thú quan sát em.
Anh thanh niên tiến đến gần em và hỏi:
- Chuyện gì xảy ra với em vậy?
- Em đói, em lạnh, em đã đi bộ bảy ngày trời.
- à, - chàng thanh niên nói, - cảnh sát đang đuổi theo em à? Em vừa vượt ngục chăng? Không ư! Tốt! Anh sẽ cho em ăn uống sau đó chúng ta sẽ.cùng nhau đến Luân Đôn. Anh có quen một ông già có thể sẽ vui lòng cho em trú ngụ.
Oliver biết tên người bạn mới của mình là Jack Dawson và tên thân mật là gã Láu Cá. Họ đi đến Luân Đôn. Jack dẫn em qua nhiều khu phố bẩn thỉu, nghèo khổ, đầy trẻ con đang thi nhau la hét.
Oliver tự hỏi liệu có nên chuồn đi không. Cuối cùng họ đến trước một cánh cửa, gã Láu Cá đẩy ra sau khi đã huýt sáo.
- Ai đấy? - Tiếng ai đó cất lên từ phía trong.
- Tôi mang đến một thành viên mới đây. - Jack cầm tay Oliver trả lời.
Oliver được đưa vào trong túp lều rách, và được giới thiệu với một ông già Do Thái da nhăn nheo tên là Fagin, lão bèn vừa cười vừa nhăn nhó điệu bộ.
- Chào mừng anh bạn mới đến. Hãy nhìn xung quanh mình xem.
Oliver ngạc nhiên nhận ra năm hay sáu nam nữ thanh niên trạc tuổi gã Láu Cá đang uống rượu, hút thuốc và trên một sợi dây có nhiều khăn choàng.
Tất cả những cái đó có nghĩa gì nhỉ?
Lão già Do Thái nét mặt gớm guốc cho Oliver ăn và mang cho em một cốc rượu đỗ tùng. Kiệt sức vì mệt mỏi và xúc động, em nhanh chóng thiếp đi.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, qua mi mắt khép hờ em thấy chỉ có một mình lão Do Thái. Lão đi lại trong phòng, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn về cái giường tồi tàn nơi em đang nằm. Oliver không động đậy vờ như đang ngủ.
Lão già, yên tâm bởi sự bất động của cậu bé, lôi ra từ sau một cánh cửa kéo trên trần nhà một chiếc hộp nhỏ rồi đặt rất cẩn thận lên bàn.
Hộp đựng chiếc đồng hồ vàng rất đẹp, lão già Do Thái bắt đầu ngắm nghía, sau đó lão lại nhìn những chiếc đồng hồ khác và nhiều đồ trang sức cùng với một vẻ sung sướng hân hoan như vậy.
Chợt, lão nhận thấy Oliver đang quan sát mình.
Lão đóng vội chiếc hộp, vớ lấy một con dao và la lên:
- Mày đã nhìn thấy tao! Tao sẽ giết mày! Mày đã trông thấy tao! Đó là kho báu của tao!
Lão già Do Thái giận dữ đứng dậy, lão run đến nỗi đứa trẻ có thể nhìn thấy lưỡi dao chao đảo.
- Tại sao mày lại rình mò tao, đồ súc sinh vô lại? Tại sao lại quan sát tao thay vì ngon giấc như người ta ra lệnh cho mày? Mày nói ngay cho tao biết mày đã trông thấy gì?... Nào, nói đi, mày đã thấy gì? Nói nhanh và không được nói dối! Hãy nghĩ rằng cuộc sống của mày đang gặp nguy hiểm đấy!
- Lẽ ra cháu muốn ngủ lâu hơn, - Oliver bình tĩnh nói, - nhưng cháu không thể ngủ được nữa.
Cháu không hề có ý không vâng lời ông. Cháu xin.ông tha lỗi nếu cháu đã gây cho ông một tổn hại nào đó.
- Được rồi, được rồi. - Lão Fagin vừa nói vừa bình tĩnh hơn một chút. - Ta tin cháu.
- Cám ơn ông.
- Và may cho cháu đó. - Lão già độc ác vừa tiếp lời vừa nghịch con dao. - Bình tĩnh nào, cháu thấy rõ ta chỉ muốn làm cháu sợ mà thôi. Ta đã muốn thử thách cháu, cháu hiểu chứ, ta muốn xem xét lòng dũng cảm của cháu. Và ta khen ngợi cháu, cháu thật can đảm, anh bạn nhỏ, cháu thật dũng cảm, Oliver ạ! Chúng ta chờ đợi nhiều ở cháu!
Vừa nói, lão Fagin vừa đặt con dao lên bàn, rồi xoa tay, nhưng lão không để chiếc hộp đựng kho báu của lão lọt khỏi tầm nhìn và thỉnh thoảng lại liếc nó với ánh mắt lo âu.
- Nói cho ta biết, - lão Do Thái vừa nói vừa tiến gần cậu bé, - cháu đã thấy cái gì đó phải không, cháu đã thấy những cái ta có trong hộp chứ? Bây giờ cháu có thể nói mà không hề sợ sệt cháu đã nhìn thấy của cải của ta phải không?
- Vâng, thưa ông. - Oliver thành thật nói khi thấy cơn lôi đình của lão già đã hạ xuống.
- à, cháu đã thấy kho báu của ta... Hãy nghe đây Oliver, tất cả những thứ đó thuộc về ta, đó là của cải của tạ Ta chỉ có ít của để dành này để sống khi ta quá già nuạ Ta sẽ chỉ có nó mà thôi khi ta không thể làm việc được nữa.
Oliver nghĩ rằng lão Fagin phải rất hà tiện mới sống trong một căn nhà ổ chuột như vậy khi lão có một gia tài như thế.
- Dậy thôi! - Lão Fagin nói, nhấc hũ nước nằm sau cánh cửa. - Ta sẽ đưa cho cháu một cái chậu để cháu rửa mặt.
Đứa trẻ vâng lời. Khi em quay lại chỗ lão già, em thấy chiếc hộp đã được cất đi.
Oliver rửa mặt cẩn thận và sắp xếp mọi thứ trật tự như lão Fagin bảo, lão còn ra lệnh cho em hắt hết nước trong chậu qua cửa sổ.
Một lát sau, Láu Cá quay về nhà với một thanh niên mà Oliver đã thoáng nhìn thấy và người ta giới thiệu với em anh chàng này tên là Charlot Bates. Mọi người ngồi vào bàn ăn và Oliver không hề làm khách, bữa ăn gồm cà phê và bánh mì nóng.
Em ngạc nhiên nhận thấy rằng Láu Cá đã mang về thịt giăm bông cất trong đáy mũ.
- Ta rất hài lòng được trông thấy các cháu. -lã o Fagin nói với Charlot và Láu Cá. - Ta đã không nói dối khi khẳng định rằng sáng nay các cháu đã làm việc tốt. Chắc là các cháu đã làm việc chứ?
- Dĩ nhiên, - Láu Cá trả lời, - và làm thật đẹp.
- Vâng, một công việc khó khăn! - Charlot thêm vào..- Nào, hãy nói đi! Các cháu có gì đưa cho ta nào?
- Hai cái ví. - Láu Cá tự hào trả lời.
- Rất nặng chứ? - lão Do Thái hỏi.
- Vâng, vâng, cháu xem chúng có vẻ dày cộm đấy. - Láu Cá nói và lôi chúng ra khỏi túi của mình.
- Chuyện này có thể tốt hơn. - lão già Do Thái nhận xét sau khi đã xem xét hai cái ví. - Nhưng cũng có thể tồi hơn. Ví chỉ mới được sử dụng và người sản xuất ra chúng là một anh thợ tốt, đã dùng những vật liệu cực kỳ. Phải không, Oliver?
- Vâng, thưa ông. - Oliver đáp.
Những lời nói của cậu bé tỏ ra ngây thơ đến nỗi Charlot ôm bụng bật cười.
- Khá ồn đấy, - lão già nói, - Charlot, còn cháu mang về cái gì thế?
- Bốn chiếc khăn taỵ - Chàng thanh niên trả lời.
- Đưa chúng đây. - Lão Do Thái nói và xem xét chúng cẩn thận. - Chúng đẹp đấy, nhưng cần phải dùng kim tháo "mác" ra. Đó là một công việc cần thiết mà Oliver có thể làm được. Chúng ta sẽ chỉ cho nó cách làm như thế nào. Phải không Oliver? Công việc này sẽ làm cháu hài lòng, anh bạn của tạ Chúng ta đồng ý chứ?
- Vâng, thưa ông, cháu sẽ vâng lệnh ông. - Cậu bé nhẹ nhàng trả lời.
- Ta chắc là, - lão Do Thái nói tiếp, - cháu sẽ tự hào được làm việc như Charlot Bates và mang về những chiếc khăn taỵ Nào, trả lời đi!
- Cháu sẽ cố gắng hết sức, nếu ông cho cháu những lời khuyên và chỉ bảo cho cháu. - Oliver nói.
Câu trả lời của cậu bé có vẻ thú vị đến độ Charlot phá lên cười một lần nữa và hắn suýt sặc khi nuốt ngụm cà phê.
- Xin lỗi. - Hắn nói với cả bọn. - Tôi đã không thể nhịn được, tôi chưa bao giờ thấy một đứa trẻ nào ngây thơ đến như vậy!
Láu Cá không nói một lời nào, gã chỉ lùa tay vào tóc Oliver, làm nó bù xù lên và xõa xuống mắt em.
- Nó sẽ nhanh biết thôi. - Charlot tiếp lời.
- Hãy chuyển sang những chuyện nghiêm túc.
- Lão Fagin vừa nói vừa chuẩn bị những việc rất kích thích sự tò mò của cậu bé Oliver.
Lão già Do Thái dường như sửa soạn chơi với hai anh chàng thanh niên. Lão để một hộp đựng thuốc rê vào trong một túi quần một quyển sổ vào túi kia. Một chiếc đồng hồ lớn được đặt trong túi con ở quần có đính dây xích an toàn chắc chắn; áo sơ mi của lão được tô điểm thêm bởi một cái kẹp ánh lên như vàng. Fagin cài cúc áo lên tít cao và không quên bỏ vào túi áo vét cái hộp kính và chiếc.khăn taỵ Sau đấy, lão bắt đầu đi lại quanh phòng với bộ dạng những quý ông đang dạo mát trên đại lộ.
Cứ như thế lão già Do Thái đóng kịch và Char-lot theo dõi cả những cử chỉ nhỏ nhất của lão với sự chú ý cao độ. Lão già cầm cây gậy chống và bước đi đường hoàng như một người đàn ông lương thiện đang vui sống. Lão đi dọc, đi ngang, dừng lại trước lò sưởi, sau đó lại tiếp tục dạo quanh phòng và dừng lại trước cửa. Lão cúi xuống như thể đang ngắm nghía những gian hàng lộng lẫy.
Oliver không rời mắt khỏi lão. Đôi khi, lão già Fagin nhìn quanh như thể lão sợ kẻ trộm. Lão sờ túi như sợ mất cái gì đó và cử chỉ của lão rất buồn cười, dáng vẻ của lão tỏ ra hài hước đến nỗi Oliver cười chảy cả nước mắt và cậu bé tự hỏi trò chơi vui nhộn này sẽ kết thúc như thế nào. Cậu sẽ biết ngay thôi.
Charlot và Láu Cá theo sau người đi dạo, chúng cũng tiến một bước khi người này tiến và cố gắng lại gần người đó hết mức có thể. Nhưng lão già không để mình mắc bẫy, lão đột ngột quay lại và hai anh chàng này lẩn đi, nhanh chóng đến kinh ngạc.
Trò chơi còn tiếp tục một lát nữa, sau đó, lão Fagin bị chặn trước, chặn sau, một anh giẫm lên chân lão, anh kia xô lão và tất cả những gì lão Do Thái mang theo: khăn tay, hộp kính, cái kẹp sáng lấp lánh, hộp đựng thuốc rê, sổ, đồng hồ... bị tước mất khỏi lão như một phép kỳ diệu.
Trò chơi lại bắt đầu. Khi lão già cảm thấy một bàn tay đang thò vào một trong những chiếc túi của mình, lão nói luôn. Thế là, trò chơi dừng và tất cả bắt đầu lại. Lão Fagin tiếp tục dạo quanh và hai anh bạn không ngừng theo sát lão và lột những gì mà lão có.
Oliver vui đùa như điên rồ và ngầm thích thú với ý định một ngày nào đó có thể bắt chước Char-lot và Láu Cá.
Một lát sau, có hai người đàn bà trẻ tuổi tên là Betty và Nancy đến. Oliver nhận thấy ngay rằng giày của họ ít được lau chùi cẩn thận và áo váy của họ đáng ra nên chữa lại. Hai cô mới đến này không đẹp nhưng họ ngẩng cao đầu và có vẻ trâng tráo.
Dường như không có gì làm họ hoảng sợ. Cả hai cô nói cùng một lúc và cung cách của họ làm Oliver thích thú, em tự nhủ:
- Các cô này có vẻ dễ thương.
Cuộc viếng thăm kéo dài và các cô nói rằng dạ dày của họ đã đóng băng. Ngay lập tức, rượu mùi được mang ra và cuộc nói chuyện càng lúc càng trở nên sôi nổi. Đến một lúc, Charlot tuyên bố:
- Các bạn, đến giờ vận dụng cặp giò rồi! Oliver không hiểu ngay ý nghĩa của câu nói nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai chàng này đi ra cùng với hai cô, em biết rằng "vận dụng cặp giò" nghĩa là "đi ra ngoài". Oliver thấy lão Do Thái đưa cho các cô cậu này ít tiền, chắc là để họ có thể giải trí chút đỉnh trên đường, như một ông bố cư xử với con cái.
- Thế nào? Anh bạn thấy ra sao? - Lão Fagin hỏi khi còn lại một mình với cậu bé Oliver. - Đó là một cách sống làm nhiều người thích thú. Hãy nghĩ rằng họ được tự do đi đâu tùy thích. Điều đó không cám dỗ cháu ư?
- Thế họ đã làm xong công việc của mình rồi ạ? - Oliver hỏi.
- Dĩ nhiên. - Lão Do Thái trả lời. - Nhưng có thể từ giờ đến tối, chúng tìm thấy điều gì đó để làm. Cháu hiểu rằng chúng sẽ không để lỡ cơ hội.
Ta khuyên cháu hãy theo gương chúng. Hãy bắt chước chúng, xin chúng lời khuyên, cháu sẽ không thiệt đâu.
Vừa nói, lão già vừa nhen lại lửa và những nhát xẻng lão giáng xuống là tăng thêm sức mạnh cho lời lẽ của lão.
- Hãy nghe đây, Oliver! - Lão tiếp lời. - Hãy làm những gì chúng sẽ nói với cháu, đừng cằn nhằn khi chúng ra cho cháu một mệnh lệnh. Luôn để mắt đến Láu Cá, nó quả là có tài và nó sẽ trở thành một vĩ nhân. Nếu cháu theo gương nó, cháu có thể chắc chắn rằng tương lai của mình được bảo đảm và cháu sẽ không bao giờ đói.
- Liệu cháu có học được cách chơi như lúc nãy ông đã làm không ạ? - Oliver ngây thơ hỏi.
- Ồ, có chứ! - Lão Fagin vừa nói vừa mỉm cười.
- Hãy nhìn xem, khăn tay của ta lòi ra khỏi túi một chút, cháu có thấy không?
- Có, thưa ông.
- Thế thì này, để làm tốt, cần phải lấy nó mà ta không hề nhận thấy... như những đứa khác đã làm sáng naỵ Cháu đã quan sát chúng khá kỹ. Nào hãy thử xem.
Oliver làm hết sức mình, em cố gắng làm hài lòng lão già và xoáy được chiếc khăn tay khá khéo léo như em đã thấy Láu Cá và Charlot làm.
- Được chưa cháu? - Lão Fagin hỏi.
- Khăn tay đây! - Cậu bé tự hào trả lời.
- Ta khen ngợi cháu Oliver, hiếm khi ta thấy kẻ nào khéo léo như cháu. Này, ta thưởng cho cháu một đồng xụ Nếu cháu tiếp tục, cháu cũng trở thành một vĩ nhân. Bây giờ, hãy lại gần ta, ta sẽ dạy thêm cho cháu một bài học nữa. Cháu sẽ biết tháo nhãn những chiếc khăn tay ngay thôi.
Oliver đã không hiểu được rằng ăn cắp là công việc duy nhất của lão Fagin và đồng bọn. Em ngạc.nhiên tự hỏi làm thế nào có thể trở nên nổi tiếng chỉ bằng cách nẫng nhẹ những chiếc khăn tay.
- Này! - Lão già Do Thái kêu lên. - Đừng ngồi ì ra không làm gì, đến đây, đây là những chiếc khăn tay, hãy nhìn xem làm thế nào ta bỏ đi nhãn mác của chúng và hãy khéo léo bắt chước ta hết mức có thể.
Lão Do Thái giam giữ Oliver trong nhiều ngày.
Lão cấm em ra ngoài và luôn theo sát em từ sáng đến tối. Những chiếc khăn tay đổ dồn vào nhà lão già và Oliver không có một phút nào rảnh rỗi nếu em muốn tháo nhãn tất cả những chiếc khăn. Đôi khi, em cũng có vài phút nghỉ ngơi khi lão Fagin, Charlot và Láu Cá lao vào trò chơi mà chúng tôi đã miêu tả ở trên. Mỗi buổi sáng, lão Do Thái lại đi dạo quanh phòng và hai anh chàng cố gắng lấy gọn nhiều thứ chất đầy túi lão. Sự khéo léo của các anh chàng này khiến Oliver thích thú ngưỡng mộ.
Sau một thời gian, cậu bé thấy đau khổ vì bị giam giữ, em bắt đầu thèm khí trời và nhiều lần em xin phép lão già Fagin cho ra ngoài và đi làm như hai anh bạn đồng hành của mình.
Oliver càng muốn được sử dụng một cách hiệu quả hơn vì em có thể thấy sự nghiêm khắc của lão già. Mỗi lần, Láu Cá và Charlot trở về tay không vào buổi tối, lão lại nói dài dòng về tính chất có hại của sự lười biếng. Lão cho các anh chàng thấy sự cần thiết của một cuộc sống năng động bằng cách bắt các anh đi ngủ không ăn tối. Thậm chí, lão còn đi đến mức đẩy các anh ngã xuống cả một loạt bậc thang. Oliver muốn tỏ ra có ích đối với một ông chủ khó tính đến như vậy.
Cuối cùng, vào một buổi sáng, lão Fagin gọi cậu bé Oliver đến.
- Thằng bé nghịch ngợm, hãy lại đây, ta báo cho cháu một tin trọng đại.
- Cháu xin nghe, thưa ông.
- Hôm nay, ta cho phép cháu ra ngoài. Ta hy vọng cháu sẽ xứng đáng với những bài học và lời khuyên mà ta đã cho cháu. Ta đặt cháu dưới sự trông chừng của Charlot và Láu Cá. Cháu biết giá trị của chúng mà. Hãy vâng lệnh chúng và cố gắng hết sức để bắt chước chúng.
Đứa trẻ được sinh ra ở một Trại tế bần và mẹ nó, người mà không ai biết tên là gì, chỉ có đủ thời gian để nhìn nó trước khi nhắm mắt.
Đứa trẻ tội nghiệp gào khóc hết cả hơi. Giá như nó có thể biết được rằng nó chỉ có một mình ở trên đời, rằng nó mồ côi, rằng nó sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị đối xử tồi tệ, chắc hẳn nó còn gào khóc to hơn nữa.
Đứa trẻ được đặt tên là Oliver Twist. Nó không ở lại lâu trong Trại tế bần mà bị gửi đến nhà một bà già tên là Mann, người thường nhận được một khoản tiền nhỏ cho mỗi đứa trẻ mà bà có trách nhiệm.
Oliver Twist vừa tròn chín tuổi. Đó là một cậu bé xanh xao, gầy gò và nhỏ bé.
Mặc dù phải chịu nhiều thiếu thốn và bị đối xử tồi tệ trong ngôi nhà người ta sắp xếp cho nó, cậu bé vẫn có một tính cách lanh lợi và cương trực.
Hôm đó, em bị nhốt vào hầm than cùng với hai đứa bạn khác, do đã dám liều lĩnh phàn nàn rằng mình đói.
Bỗng nhiên, bà Mann, chủ nhân khu nhà đó, ngạc nhiên bởi sự xuất hiện đột ngột của viên thanh tra Trại tế bần, ông Bumble, đang cố mở cánh cửa của khu vườn.
- Qúy hóa quá! Ngài Bumble đấy à? - Bà Mann vừa nói vừa nhoài người ra cửa sổ, vờ tỏ vẻ rất vui mừng. - Nhanh lên, Suzanne, cho ba thằng nhóc ra khỏi hầm than và rửa ráy thật nhanh cho chúng.
Đừng để cho ông Bumble nhìn thấy chúng trong tình trạng thế này. Thưa ngài Bumble, tôi thật lấy làm sung sướng được gặp ngài.
ông Bumble là một người dễ nổi nóng. Ông bắt đầu lắc mạnh chốt cửa và đập ầm ầm vào cánh cửa.
Trong thời gian đó, tụi trẻ được đưa ra khỏi hầm than và nhanh chóng rửa ráy sạch sẽ.
- Tôi đây. - Bà Mann nói. - Mời ngài vào, thưa ngài Bumble.
Bà Mann dẫn ngài thanh tra Trại tế bần vào một căn buồng nhỏ lát gạch. Bà ta mang đến cho ngài thanh tra một cái ghế tựa rồi nhanh nhảu cầm mũ và gậy của ông đặt lên bàn. Ngài Bumble lau cái trán lấm tấm mồ hôi. Ngụm rượu bà Mann mời khiến ông hết nhăn nhó..- Bà Mann, bà có cho lũ trẻ ăn cháo không đấy? - Ông Bumble hỏi.
- Có, tôi có cho chúng ăn. - Bà ta nói. - Mặc dù cháo cũng đắt đấy. Nhưng tôi không thể nhìn những đứa trẻ thân thương ấy phải khổ sở. Ngài thấy đấy, tôi không thể kìm lòng được.
- Tốt, - Ông Bumble nói, - tốt lắm, bà là một phụ nữ trung hậu, bà Mann ạ. Chúng tôi đã làm đúng khi giao những đứa trẻ cho bà. Nhưng tôi đến đây để nói về công chuyện. - Ngài thanh tra vừa nói vừa rút từ túi quần ra một cái ví da nhỏ. - Đứa trẻ được đặt tên thánh là Oliver Twist đến nay đã chín tuổi...
- Một đứa trẻ thật tử tế. - Bà Mann vừa nói vừa chùi mắt trái bằng góc chiếc tạp dề của mình.
- Dù đã trao giải thưởng mười bảng Anh và những cố gắng to lớn của Trại tế bần, - Ông Bumble nói, - nhưng vẫn không thể tìm ra cha đứa trẻ cũng như họ tên bà mẹ quá cố của nó.
Bà Mann rất ngạc nhiên, hỏi sau một hồi suy nghĩ:
- Nhưng làm thế nào mà nó lại có một họ được nhỉ?
- Chính tôi đã nghĩ ra đấy chứ. - Ngài thanh tra vừa nói vừa vươn thẳng mình rất tự hào.
- Ông ư, thưa ngài Bumble?
- Chính tôi đấy, bà Mann ạ. Tôi đặt họ cho lũ trẻ tìm thấy được theo thứ tự chữ cái abc, đứa gần đây đến chữ S, tôi đặt cho nó họ Swubble, và đứa này đến chữ T, tôi đặt là Twist. Những đứa tiếp theo là Unwin, Vilkent và tiếp tục cho đến chữ Z. Khi đến chữ cái này, tôi làm lại từ đầu bảng chữ cái.
- Ông đã nghĩ kỹ thật đấy. - Bà Mann nói.
- Đúng vậy, - Ông thanh tra nói vẻ mãn nguyện về lời khen này. Uống hết cốc rượu, ông ta tiếp lời.
- Bây giờ Oliver quá lớn để ở lại đây, hội đồng đã quyết định cho nó quay về trại và tôi đến đây để tìm nó. Dẫn nó ra đây cho tôi!
- Ông sẽ gặp nó ngay thôi. - Bà Mann nói và rời khỏi phòng. - Trong lúc đó, Oliver đã được cọ rửa sạch lớp cáu ghét bám đầy mặt đầy tay, và được đưa ngay vào gian phòng ông Bumble đang ngồi.
- Oliver, hãy chào ngài đây. - Bà Mann nói.
Oliver kính cẩn cúi rạp mình chào ông Bumble.
- Cháu có muốn đi cùng với ta không, Oliver?
- Bà Mann không đi cùng với cháu ạ? - Cậu bé Oliver tội nghiệp hỏi.
- Không, không thể được, nhưng thỉnh thoảng bà ấy sẽ đến thăm cháu..Oliver cảm thấy nhẹ nhõm khi rời xa bà Mann nhưng dù còn rất nhỏ, em cũng đủ ý thức để giả vờ rất buồn rầu. Chẳng khó khăn lắm đối với đứa trẻ tội nghiệp để làm rơi nước mắt. Cái đói cùng những đòn roi mới nhận được tỏ ra thật có ích khi người ta muốn khóc và Oliver đã làm điều đó theo cách tự nhiên nhất.
Bà Mann hôn thằng bé và cho nó cái đáng giá hơn nụ hôn là một lát bánh mì phết bơ để nó không có vẻ quá đói khát khi đến Trại tế bần. Oliver được ông Bumble đưa ra khỏi nơi đáng sợ này, nơi mà không bao giờ có một lời nói hay một ánh mắt yêu thương tô điểm cho những năm tháng ấu thơ buồn bã của nó. Tuy nhiên, nó cũng nức nở khóc khi cánh cửa khép lại sau lưng, bởi vì dù những người bạn đồng hành bé nhỏ bất hạnh mà nó rời xa có khốn khổ đến mấy, đó cũng là những người bạn duy nhất nó từng quen biết. Lần đầu tiên nó cảm thấy thật đơn độc trên thế giới này.
Oliver bước qua ngưỡng cửa Trại tế bần chưa đầy mười lăm phút, và chỉ mới nuốt xong miếng bánh thứ hai thì ông Bumble quay lại bảo nó rằng hôm đó là ngày họp hội đồng và nó phải đến đấy trình diện.
Oliver, người chưa từng có một ý tưởng cụ thể nào về cái được gọi là hội đồng, rất đỗi ngạc nhiên về cái tin đó, không biết là mình nên cười hay nên khóc. Ông Bumble cầm gậy đập nhẹ lên đầu nó để nó chú ý và đập cái nữa lên lưng để nó nhanh nhẹn lên. Ông ta ra lệnh cho nó đi theo và đưa nó vào một gian phòng quét vôi trắng có khoảng một chục ngài to béo đang ngồi quanh một chiếc bàn. Một ông thân hình mập mạp béo tốt, có bộ mặt tròn và ửng đỏ, ngồi trong một chiếc ghế bành được kê cao hơn những ghế khác.
- Chào hội đồng đi! - Ông Bumble nói.
Oliver chùi hai ba giọt nước mắt và cúi chào.
- Cậu bé, họ của cháu là gì? - Ông ngồi trong chiếc ghế bành hỏi.
Oliver sợ hãi khi nhìn thấy nhiều ông đến như vậy nên cứ câm lặng. Ông Bumble lại nện lên lưng cậu bé một lần nữa khiến nó bật khóc, nó liền trả lời rất khẽ bằng một giọng run rẩy. Thế là một ông mặc áo gilê trắng nói rằng thằng bé này ngu ngốc, cần có biện pháp tuyệt vời để mang lại cho nó một chút tự tin và để nó thoải mái!
- Hãy lắng nghe ta, cậu bé, - ngài chủ tịch nói.
- ta cho rằng cháu biết là mình mồ côi.
- Thế là thế nào ạ? - Thằng bé đáng thương hỏi.
- Thằng bé này quả là ngu ngốc, tôi dám chắc điều đó. - Ông mặc áo gilê trắng quả quyết nói..- Suỵt! - Ông nói đầu tiên tiếp lời. - Cháu biết rằng cháu không có cả bố lẫn mẹ và cháu được nuôi nấng bằng chi phí của giáo khu chứ?
- Vâng, thưa ngài. - Oliver trả lời và cay đắng nức nở.
- Tốt! - Ông có gương mặt đỏ đắn nói. - Cháu ở đây để được giáo dục và học một nghề có ích.
Kể từ ngày mai, cháu sẽ bắt tay vào làm việc.
Oliver quay lại Trại tế bần như vậy đó. Nó ngủ trên một chiếc giường rất cứng trong căn phòng lớn của trại.
Phòng ăn của bọn trẻ là một phòng lớn lát gạch, phía cuối phòng có đặt một cái chảo, nơi người phụ trách trại đeo tạp dề và được một bà già phụ giúp phát cháo yến mạch vào giờ ăn.
Mỗi đứa trẻ được nhận một tô nhỏ yến mạch, không bao giờ hơn, trừ những ngày lễ có thêm một mẩu bánh mì. Những cái bát này chẳng bao giờ cần lau rửa, những đứa trẻ đã dùng thìa vét nhẵn nhụi bát của mình cho đến khi nó lại sáng loáng lên.
Thường thường, trẻ con ăn rất ngon miệng, Oliver Twist và những người bạn của em phải chịu đựng sự hành hạ của cái đói trong ba tháng. Rốt cục thì cái đói này khiến một cậu bé lớn hơn so với tuổi của mình và không quen với cảnh sống như vậy bị thác loạn đến mức em nói cho bạn bè hiểu rằng nếu không được thêm một suất yến mạch mỗi ngày, e rằng một đêm nào đó em sẽ ăn sống nuốt tươi cậu bé nằm chung giường với em, cậu này ít tuổi và yếu đuối. Sau đó, chúng thảo luận, chúng bốc thăm để biết bữa tối nay ai phải đi xin trưởng trại thêm một khẩu phần nữa. Cái thăm rơi vào Oliver Twist.
Tối đến, những đứa trẻ ngồi vào chỗ của mình, cuối bữa ăn, Oliver tiến gần đến trưởng trại:
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ.
Trưởng trại, một người đàn ông béo tốt, tái mặt đi sửng sốt. Ông ta nhìn nhiều lần thằng bé nổi loạn, sau đó ông dựa người vào chảo cho vững.
Bà già giúp việc ngẩn người kinh ngạc và bọn trẻ thì ngẩn người vì kinh hãi.
- Thế nào? - Trưởng trại nói, giọng lạc hẳn đi.
- Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ. -Oliver trả lời.
Trưởng trại vụt vào đầu Oliver một nhát muôi, siết chặt nó trong tay và hét to gọi ông Bumble.
Hội đồng đang trong buổi họp long trọng, thì ông Bumble thở hổn hển, chạy vội vào phòng, nói với ngài chủ tọa:
- Thưa ngài Limbkins, tôi xin lỗi ngài. Oliver lại xin thêm cháo..Thật là sửng sốt. Sự ghê sợ hiện lên mọi gương mặt.
- Nó lại xin thêm nữa à? - Ngài Limbkins nói.
- Tôi phải hiểu rằng nó lại xin thêm thức ăn nữa ư?
- Vâng, thưa ngài. - Ông Bumble trả lời.
- Đứa trẻ này rồi ra sẽ khiến người ta phải treo cổ nó. - Ông mặc áo gilê trắng nói. - Đúng vậy, đứa trẻ này rồi sẽ bị treo cổ.
Sau khi phạm cái tội không thể tha thứ được là xin thêm yến mạch, Oliver bị giam tám ngày trong ngục tối chật hẹp, nơi mà lòng nhân từ và sự khôn ngoan của hội đồng đưa nó vào. Em khóc cay đắng suốt nhiều ngày liền và khi đêm đến, em đặt đôi bàn tay nhỏ bé của mình lên mắt để khỏi nhìn thấy bóng đêm và thu mình trong một góc cố thiếp đi.
Một ngày kia, người ta quyết định giao em cho một thợ nạo ống khói, người đã từng có tiếng làm chết nhiều cậu học việc của mình.
Mọi thủ tục đã làm xong thì viên pháp quan, người phải điền chữ ký cuối cùng, cảm thấy ít nhiều băn khoăn khi nhìn thấy nét mặt hốc hác của Oliver, em thực sự hãi hùng vì viễn cảnh phải sống dưới mệnh lệnh của ông thợ nạo ống khói.
Oliver Twist được gửi trả lại Trại tế bần và ông Limbkins thốt lên khi trông thấy em quay lại:
- Thằng bé sẽ bị treo cổ thôi, tôi đoán chắc điều đó.
- Chúng ta phải làm gì với thằng bé này đây?
- Mọi người trong hội đồng hỏi lẫn nhau. - Giá như chúng ta có thể đuổi nó đi xa làm thủy thủ.
Nhưng chẳng có một viên thuyền trưởng nào muốn nhận nó.
Cuối cùng, Oliver Twist cũng được một ông bán quan tài chấp nhận, ông Sowerberry, người muốn dạy nghề nghiệp cho nó.
Một lần nữa, Oliver đi cùng ông Bumble đến chỗ ở mới của mình. Cậu bé tự đấm ngực, nức nở và nhìn ông Bumble với vẻ lo âu. Ông này ngạc nhiên nhìn vẻ mặt thảm hại và buồn bã của cậu bé, ông ho hai ba tiếng như một người bị khan giọng, lầu bầu trong kẽ răng về chứng ho đáng bực mình, sau đó bảo Oliver lau khô mắt và hãy ngoan ngoãn lên. Rồi cầm lấy tay em ông tiếp tục lặng lẽ đi.
ông đóng áo quan vừa mới đóng cửa hàng và đang ngồi ghi chép vài khoản thu nhập vào quyển sổ tính toán của mình, dưới ánh sáng mờ của ngọn nến xấu thì ông Bumble bước vào.
- à, ông chính là ông Bumble đấy ư? - Ông ta vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên và ngừng viết..- Không ai khác, ông Sowerberry này, tôi mang đến cho ông đứa trẻ đấy. - Viên thanh tra trả lời.
Oliver cúi chào.
- à, đây là đứa trẻ đã được nói đến phải không.
- Người chuyên phụ trách ma chay cất tiếng và nhấc ngọn nến lên để nhìn Oliver kỹ hơn.
Bà Sowerberry bước ra từ một phòng nhỏ sau cửa hiệu, đó là một người đàn bà thấp bé, gầy còm, khô khan, một mụ đàn bà độc ác thật sự.
- Này em yêu, - Ông Sowerberry nói với vẻ tôn kính. - đây là đứa trẻ ở Trại tế bần mà tôi đã nói với mình.
Oliver lại cúi chào lần nữa.
- Chúa ơi! Sao mà nó gầy thế! - Bà vợ thốt lên.
- Quả đúng vậy, nó không khỏe. - Ông Bumble trả lời và nghiêm khắc nhìn Oliver như thể đấy là tội của em. - Phải thừa nhận rằng nó không khỏe nhưng rồi nó sẽ lớn lên, thưa bà Sowerberry, nó sẽ lớn lên.
- Vâng, - bà ta nói với vẻ cau có, - nhờ vào đồ ăn thức uống của chúng tôi chứ gì. Còn kiếm được gì hơn từ những đứa trẻ ở Trại tế bần? Bao giờ chúng cũng gây tốn kém hơn giá trị thực của mình. Nào, bộ xương nhỏ, hãy xuống đây!
Sau những lời nói trên, bà ta mở một cánh cửa, đẩy Oliver xuống một cái cầu thang thẳng đứng, dẫn đến một căn hầm tối và ẩm ướt, sát cạnh chỗ để củi mà người ta gọi là bếp, nơi có một con bé bẩn thỉu, đi đôi giày mòn gót, với đôi tất thô màu xanh rách bươm.
- Charlotte, - bà Sowerberry đi theo sau Oliver nói, - hãy cho cậu bé này vài thứ mà chúng ta cất phần Trip, nó đã không quay về nhà cả ngày hôm nay, vậy nó sẽ không cần đến chỗ thức ăn đó. Ta cho rằng cậu sẽ không cảnh vẻ chứ, nhóc con?
Oliver mắt sáng lên vì ý nghĩ sẽ được ăn thịt, có thể chết được vì thèm muốn ngấu nghiến thức ăn đó, trả lời không ạ, và một đĩa thức ăn thừa tồi tệ được đặt trước mặt em. Cậu bé lao đến ngốn ngấu đĩa thức ăn thừa mà con chó đã chê không thèm ăn.
- Được rồi! - Bà ta nói khi Oliver ăn xong bữa tối của mình, bà ta đã chứng kiến cảnh đó với sự ghê sợ lặng lẽ, kinh hoảng vì sự ngon miệng của cậu bé.
- Đi với tạ - Bà nói tiếp.
Bà ta cầm một cây đèn bẩn, đầy khói và dẫn em lên cầu thang.
- Giường của cậu nằm phía dưới quầy hàng. Ta cho rằng cậu không sợ khi phải nằm giữa những.chiếc áo quan chứ? Vả lại, dù cậu có thích điều đó hay không, cậu cũng sẽ không ngủ nơi khác được.
Oliver không đáp lại và ngoan ngoãn theo sau bà chủ mới.
Còn lại một mình trong cửa hàng đóng áo quan, Oliver đặt cây đèn lên một chiếc ghế dài, đưa mắt rụt rè nhìn xung quanh với một cảm giác hoảng sợ.
Sớm hôm sau, cậu bé bị đánh thức bởi tiếng chân đạp mạnh giận dữ lặp đi lặp lại hai mươi lăm lần phía ngoài cửa hiệu, trong khi cậu bé vội vàng mặc áo quần. Chỉ khi cậu bắt đầu kéo chốt cửa thì tiếng chân mới ngừng đạp và có tiếng nói vọng vào.
- Mày có mở cửa ra không? - Ai đó hét lên.
- Vâng, thưa ông, ngay lập tức. - Oliver vừa trả lời vừa kéo chốt và xoay chìa trong ổ khóa.
- Mày là đứa học việc mới ở đây phải không?
- Tiếng nói vọng vào qua lỗ khóa.
- Vâng, thưa ông. - Oliver trả lời.
- Mày bao nhiêu tuổi?
- Mười bốn thưa ông.
- Thế thì tao phải quở trách mày mới được.
Oliver mở cửa, tay run run.
Cậu bé nhìn quanh phố, bên phải, bên trái, nghĩ rằng người nói chuyện với mình qua lỗ khóa chắc đã đi loanh quanh vài bước cho ấm người. Bởi vì em không thấy ai ngoài một cậu to xác của trường từ thiện, đang ngồi trên một cột mốc trước nhà và đang bận ăn một miếng bánh mì quệt bơ.
- Xin lỗi anh, - cuối cùng Oliver cất lời khi không trông thấy một người khách nào khác, -chính anh đã gõ cửa à?
- Tao đạp chân đấy chứ. - Anh kia trả lời.
- Anh cần một chiếc áo quan chăng? - Oliver hỏi rất ngây thơ.
Anh chàng tỏ ra bực bội.
- Chắc mày không biết ta là ai rồi, kẻ mồ côi đáng ghét kia?
- Không, thưa anh. - Oliver trả lời.
- Ta là ông Noé Claypole, - anh ta tiếp lời, -và mày là kẻ phụ tá cho tạ Nào, xê ra.
Noé Claypole bồi cho Oliver một cú đá và bước vào cửa hiệu với vẻ đàng hoàng trang nghiêm, cốt mang lại cho mình vẻ quan trọng.
- Này, Noé, lại gần lửa đi, - Charlotte nói, -tôi đã lấy cho anh từ bữa trưa của ông chủ một miếng mỡ lá rồi đấy! Còn Oliver, hãy ăn mẩu bánh mì này đi!
Cả hai liếc mắt khinh bỉ nhìn Oliver đáng thương đang ngồi run lập cập trên một cái hòm và ăn phần bánh mì rắn câng còn lại mà mọi người đặc biệt dành cho nó..Noé không phải là một đứa trẻ nhặt được.
Mẹ nó là thợ giặt còn bố nó, cựu chiến binh, nát rượu, ra khỏi quân ngũ với một chân gỗ. Noé đã từng phải chịu đựng nhiều lời chửi rủa của những cậu bé cửa hiệu kế bên. Giờ đây, sự may mắn đã đặt một kẻ mồ côi đáng thương, không họ tên trên con đường của nó và nó sẽ đem cậu bé này ra trả hận.
Mặc dù bị đối xử tàn tệ và buộc phải tham dự vào nhiều cảnh tang tóc, Oliver Twist vẫn tận tình phục vụ Ông chủ của mình.
Em đi theo những đám tang và trong những dịp như vậy, em đội một chiếc mũ gắn băng tang, tay cầm gậy đen. Tất cả mọi người đều mãn nguyện về anh chàng phu đám trẻ tuổi này, tuy nhiên không ai biểu lộ chút đồng cảm nhỏ nhặt nào đối với em.
Sau một tháng học việc, Oliver được xác định là thợ học nghề, lúc đó là mùa những nạn dịch.
Và trong vài tuần lễ, Oliver đã học được nhiều kinh nghiệm. Em vẫn tiếp tục chịu sự đàn áp của Noé Claypole, luôn ghen tị về bộ đồng phục của Oliver.
Một hôm, Oliver và Noé cùng đi xuống bếp vào giờ ăn tối quen thuộc để thưởng thức một miệng thịt cừu nhỏ. Charlotte đi ra ngoài và anh chàng Noé Claypole cho rằng mình chẳng thể giết thời gian thú vị hơn ngoài cách giày vò cậu bé Oliver.
- Mẹ của mày sao rồi? - Noé hỏi.
- Bà ta chết rồi. - Oliver trả lời. - Tôi xin anh đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.
Cậu bé đỏ mặt khi thốt lên những lời đó. Em thở gấp và Noé cho rằng em sắp òa khóc, bởi vậy nó quay lại đề tài đó.
- Mẹ mày chết vì lý do gì? - Noé hỏi.
- Vì thất vọng, đó là những gì mọi người nói với em. - Oliver trả lời.
- Dù sao thì mẹ mày chết đi là hơn. Chắc chắn mẹ mày là một tên tội phạm. Mẹ mày đáng ra phải chịu một kết cục tù tội hay bị treo cổ.
Mặt đỏ rực lên, Oliver lao đến, hất đổ ghế và bàn, tóm lấy họng Noé, lắc mạnh với vẻ giận dữ điên cuồng đến nỗi răng em đập vào nhau và thu mọi sức lực, em đánh nó một cú mạnh đến nỗi khiến nó ngã nhào xuống đất.
Chỉ một lát trước đây, đứa trẻ này dù bị bao sự đối xử đè nặng vẫn hết sức nhu mì nhưng cuối cùng thì lòng dũng cảm cũng trỗi dậy. Sự lăng nhục xúc phạm đến linh hồn mẹ khiến em phát khùng, tim em đập mạnh. Trong em tất cả đã thay đổi, giờ đây em nhìn kẻ hèn hạ vừa ngược đãi mình.đang nằm dài dưới chân và thách thức nó với một nghị lực mà chính em chưa hề biết đến trước đây.
- Có kẻ giết người! - Noé la lên. - Charlotte ơi, bà ơi! Tên học việc đang giết tôi! Cứu với! Oliver bị điên rồi!
Charlotte và bà Sowerberry lao đến đánh em một trận nhừ tử. Họ nhốt Oliver đáng thương vào một căn hầm khiến em vô cùng hoảng sợ.
- Chúng ta sẽ làm gì với kẻ điên khùng này? -Bà Sowerberry hỏi. - Gọi cảnh sát hay cận vệ? Hay có thể là ngài thanh tra Trại tế bần? Ta cho rằng ý nghĩ này hay đấy. Noé, hãy chạy nhanh đến Trại.
Mắt của cháu không bị hỏng đấy chứ, và hãy dẫn ngài Bumble lại đây. Nhanh lên!
Noé Claypole nhảy ba bước đến Trại và nó khích động tất cả mọi người. Nó không ngừng la lên:
- Oliver Twist muốn giết tôi. Nó còn muốn giết bà chủ của mình nữa. Ôi, tôi đau biết bao!
Quyết định phải trừng trị Oliver được đưa ra ngay lập tức và ông Bumble nhận được lệnh không được nương nhẹ cho tên nổi loạn trẻ tuổi này, nó phải chịu một trận đòn nhừ tử.
ông ta đến nhà ông Sowerberry ngay lập tức.
Oliver vẫn chưa bình tâm được, em hét như một kẻ bị ma ám và giận dữ đạp vào cánh cửa hầm.
- Thả tôi ra! Thả tôi ra!
- Cháu không nhận ra giọng ta ư Oliver? - Ông Bumble hỏi.
- Không! - Oliver ương ngạnh khẳng định.
Một câu trả lời thật khác với những gì mình chờ đợi và quen nhận khiến ông Bumble phần nào lúng túng. Ông bước ra xa ổ khóa cửa, vươn thẳng người, im lặng kinh ngạc và nhìn từng người đang có mặt.
- Ồ ngài biết đấy, thưa ngài Bumble, nói với ngài như vậy chắc hẳn nó bị điên rồi. - Bà Sower-berry nói.
- Đó không phải là sự điên rồ. - Ông Bumble trả lời. - Đó là do thức ăn.
- Gì cơ! - Bà Sowerberry la lên.
- Do thức ăn. - Ông Bumble đáp với vẻ rất nghiêm túc. - Bà đã cho nó ăn quá nhiều.
- Đó là kết cục của lòng quá nhân từ đấy. - Bà Sowerberry nói.
ông Bumble thấy không nên thả ngay thằng quỷ con này ra, nó có vẻ rất nguy hiểm.
Cuối cùng, cậu bé cũng bị lôi cổ ra giữa ban ngày. Mọi người chửi mắng em, nguyền rủa linh hồn mẹ em và bắt đầu đánh tới tấp lên thân thể.nhỏ bé đáng thương của em, sau đó người ta ra lệnh cho em quay lại giường.
Trong căn phòng nhỏ bé u ám và lạnh lẽo của mình, Oliver tha hồ nghĩ ngợi về cuộc đời buồn khổ mình đang sống. Hôm nay, họ đã đối xử vượt quá sức chịu đựng của em. Điều đó không thể kéo dài hơn nữa. Em sẽ bỏ ra đi!
---->Tự động bổ sung bài viết <-----
Chương 2: Chạy trốn tới Luân Đôn
Khi mặt trời vừa ló, Oliver dậy và kéo chốt cửa. Em lưỡng lự giây lát. Ra đi ư? Đúng vậy, cuộc sống quá cực nhọc. Em sẽ đi đâu bây giờ? Rẽ phải hay rẽ trái? Em nhớ lại đã từng thấy những xe chở hàng bốn bánh leo lên đồi khi chúng ra khỏi thành phố. Em đi theo hướng ấy và chẳng mấy chốc đến một lối mòn nhỏ xuyên qua cánh đồng. Em biết rằng lối mòn này, đi một chút sẽ dẫn ra đường cái.
Em bước lên đường cái.
Cột mốc nơi em ngồi nghỉ chân chỉ rõ rằng Luân Đôn cách đó tám mươi cây số. Tại sao em lại không thử vận may ở thủ đô nhỉ? ở nơi đó ít ra em cũng được an toàn. Không ai, ngay cả ông Bumble có thể phát hiện ra em. Khi còn ở Trại tế bần, mọi người đã từng nói với em về Luân Đôn, người ta đã khẳng định với em rằng trong thành phố này có rất nhiều cơ hội để kiếm tiền.
Không có gì phải lưỡng lự nữa, đó là nơi em phải đến. Em đứng dậy, lòng tràn đầy dũng cảm..Em lại nhanh nhẹn lên đường, nhưng em không tưởng tượng được tất cả những gì em phải chịu đựng trước khi đạt được mục đích của chuyến du hành.
Trong túi đồ của mình, em có một mẩu bánh mì, một chiếc áo sơ mi cũ, hai đôi tất và một ít tiền mà một ngày nọ, sau một đám tang em đã nhận được.
Oliver bước nhanh chân. Những cây số này tiếp nối những cây số khác nhưng thành phố lớn vẫn còn rất xạ Đôi khi, Oliver đói và khát, lúc đó em nhấm nháp một mẩu bánh mì và hỏi xin một cốc nước ở những túp lều tranh bên đường.
Bàn chân em bắt đầu sưng phồng lên và đôi khi bắp chân yếu ớt đến nỗi chúng trở nên run rẩy.
Đêm xuống, em vào một đồng cỏ và thu mình dưới chân một đụn cỏ khộ Cơn gió buồn rầu, rít trên cánh đồng vắng vẻ khiến em hơi sợ nhưng em thiếp đi nhanh chóng và vì thế quên đi những khó nhọc của mình.
Sáng dậy, em cảm thấy lạnh cóng cả người. Đến ngôi làng đầu tiên, em mua bánh mì. Hôm đó em chỉ đi được vài cây số và khi màn đêm bao phủ, đôi bàn chân em rướm máu.
Một đêm nữa trôi qua ngoài trời, thời tiết lạnh và ẩm ướt cuối cùng làm em kiệt sức. Em lê bước tiến lên.
Gặp một nhà trọ, Oliver nhìn mọi người qua lại một cách rất thảm hại cho tới khi ông chủ ra lệnh cho đầy tớ của mình đuổi thằng bé khốn cùng này đi. Nơi khác, người ta dọa thả chó ra đuổi em hoặc dọa giao em cho chính quyền địa phương.
Điều đó đủ làm em chạy trốn thật nhanh.
Em lại tiếp tục lên đường và hỏi xin một chút bánh mì ở những nơi có thể, vì ở nhiều cổng làng, em kinh hãi đọc những biển thông báo rằng người nào đi ăn xin sẽ bị giam vào ngục.
Em còn phải ngủ nhiều lần nữa ngoài trời, và sức em bắt đầu cạn kiệt nghiêm trọng. Chắc chắn rằng nếu không có lòng tốt của một người gác chắn đường và một bà già thì những nỗi đau khổ của Oliver đã bị rút ngắn lại như bà mẹ đáng thương của em. Em tới một thành phố nhỏ tên là Barnet.
Oliver Twist, người đầy bụi, ngồi bệt xuống những bậc thềm lạnh lẽo như một kẻ ăn mày. Chính lúc đó, em làm quen được với một nhân vật lạ lùng đang thích thú quan sát em.
Anh thanh niên tiến đến gần em và hỏi:
- Chuyện gì xảy ra với em vậy?
- Em đói, em lạnh, em đã đi bộ bảy ngày trời.
- à, - chàng thanh niên nói, - cảnh sát đang đuổi theo em à? Em vừa vượt ngục chăng? Không ư! Tốt! Anh sẽ cho em ăn uống sau đó chúng ta sẽ.cùng nhau đến Luân Đôn. Anh có quen một ông già có thể sẽ vui lòng cho em trú ngụ.
Oliver biết tên người bạn mới của mình là Jack Dawson và tên thân mật là gã Láu Cá. Họ đi đến Luân Đôn. Jack dẫn em qua nhiều khu phố bẩn thỉu, nghèo khổ, đầy trẻ con đang thi nhau la hét.
Oliver tự hỏi liệu có nên chuồn đi không. Cuối cùng họ đến trước một cánh cửa, gã Láu Cá đẩy ra sau khi đã huýt sáo.
- Ai đấy? - Tiếng ai đó cất lên từ phía trong.
- Tôi mang đến một thành viên mới đây. - Jack cầm tay Oliver trả lời.
Oliver được đưa vào trong túp lều rách, và được giới thiệu với một ông già Do Thái da nhăn nheo tên là Fagin, lão bèn vừa cười vừa nhăn nhó điệu bộ.
- Chào mừng anh bạn mới đến. Hãy nhìn xung quanh mình xem.
Oliver ngạc nhiên nhận ra năm hay sáu nam nữ thanh niên trạc tuổi gã Láu Cá đang uống rượu, hút thuốc và trên một sợi dây có nhiều khăn choàng.
Tất cả những cái đó có nghĩa gì nhỉ?
Lão già Do Thái nét mặt gớm guốc cho Oliver ăn và mang cho em một cốc rượu đỗ tùng. Kiệt sức vì mệt mỏi và xúc động, em nhanh chóng thiếp đi.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, qua mi mắt khép hờ em thấy chỉ có một mình lão Do Thái. Lão đi lại trong phòng, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn về cái giường tồi tàn nơi em đang nằm. Oliver không động đậy vờ như đang ngủ.
Lão già, yên tâm bởi sự bất động của cậu bé, lôi ra từ sau một cánh cửa kéo trên trần nhà một chiếc hộp nhỏ rồi đặt rất cẩn thận lên bàn.
Hộp đựng chiếc đồng hồ vàng rất đẹp, lão già Do Thái bắt đầu ngắm nghía, sau đó lão lại nhìn những chiếc đồng hồ khác và nhiều đồ trang sức cùng với một vẻ sung sướng hân hoan như vậy.
Chợt, lão nhận thấy Oliver đang quan sát mình.
Lão đóng vội chiếc hộp, vớ lấy một con dao và la lên:
- Mày đã nhìn thấy tao! Tao sẽ giết mày! Mày đã trông thấy tao! Đó là kho báu của tao!
Lão già Do Thái giận dữ đứng dậy, lão run đến nỗi đứa trẻ có thể nhìn thấy lưỡi dao chao đảo.
- Tại sao mày lại rình mò tao, đồ súc sinh vô lại? Tại sao lại quan sát tao thay vì ngon giấc như người ta ra lệnh cho mày? Mày nói ngay cho tao biết mày đã trông thấy gì?... Nào, nói đi, mày đã thấy gì? Nói nhanh và không được nói dối! Hãy nghĩ rằng cuộc sống của mày đang gặp nguy hiểm đấy!
- Lẽ ra cháu muốn ngủ lâu hơn, - Oliver bình tĩnh nói, - nhưng cháu không thể ngủ được nữa.
Cháu không hề có ý không vâng lời ông. Cháu xin.ông tha lỗi nếu cháu đã gây cho ông một tổn hại nào đó.
- Được rồi, được rồi. - Lão Fagin vừa nói vừa bình tĩnh hơn một chút. - Ta tin cháu.
- Cám ơn ông.
- Và may cho cháu đó. - Lão già độc ác vừa tiếp lời vừa nghịch con dao. - Bình tĩnh nào, cháu thấy rõ ta chỉ muốn làm cháu sợ mà thôi. Ta đã muốn thử thách cháu, cháu hiểu chứ, ta muốn xem xét lòng dũng cảm của cháu. Và ta khen ngợi cháu, cháu thật can đảm, anh bạn nhỏ, cháu thật dũng cảm, Oliver ạ! Chúng ta chờ đợi nhiều ở cháu!
Vừa nói, lão Fagin vừa đặt con dao lên bàn, rồi xoa tay, nhưng lão không để chiếc hộp đựng kho báu của lão lọt khỏi tầm nhìn và thỉnh thoảng lại liếc nó với ánh mắt lo âu.
- Nói cho ta biết, - lão Do Thái vừa nói vừa tiến gần cậu bé, - cháu đã thấy cái gì đó phải không, cháu đã thấy những cái ta có trong hộp chứ? Bây giờ cháu có thể nói mà không hề sợ sệt cháu đã nhìn thấy của cải của ta phải không?
- Vâng, thưa ông. - Oliver thành thật nói khi thấy cơn lôi đình của lão già đã hạ xuống.
- à, cháu đã thấy kho báu của ta... Hãy nghe đây Oliver, tất cả những thứ đó thuộc về ta, đó là của cải của tạ Ta chỉ có ít của để dành này để sống khi ta quá già nuạ Ta sẽ chỉ có nó mà thôi khi ta không thể làm việc được nữa.
Oliver nghĩ rằng lão Fagin phải rất hà tiện mới sống trong một căn nhà ổ chuột như vậy khi lão có một gia tài như thế.
- Dậy thôi! - Lão Fagin nói, nhấc hũ nước nằm sau cánh cửa. - Ta sẽ đưa cho cháu một cái chậu để cháu rửa mặt.
Đứa trẻ vâng lời. Khi em quay lại chỗ lão già, em thấy chiếc hộp đã được cất đi.
Oliver rửa mặt cẩn thận và sắp xếp mọi thứ trật tự như lão Fagin bảo, lão còn ra lệnh cho em hắt hết nước trong chậu qua cửa sổ.
Một lát sau, Láu Cá quay về nhà với một thanh niên mà Oliver đã thoáng nhìn thấy và người ta giới thiệu với em anh chàng này tên là Charlot Bates. Mọi người ngồi vào bàn ăn và Oliver không hề làm khách, bữa ăn gồm cà phê và bánh mì nóng.
Em ngạc nhiên nhận thấy rằng Láu Cá đã mang về thịt giăm bông cất trong đáy mũ.
- Ta rất hài lòng được trông thấy các cháu. -lã o Fagin nói với Charlot và Láu Cá. - Ta đã không nói dối khi khẳng định rằng sáng nay các cháu đã làm việc tốt. Chắc là các cháu đã làm việc chứ?
- Dĩ nhiên, - Láu Cá trả lời, - và làm thật đẹp.
- Vâng, một công việc khó khăn! - Charlot thêm vào..- Nào, hãy nói đi! Các cháu có gì đưa cho ta nào?
- Hai cái ví. - Láu Cá tự hào trả lời.
- Rất nặng chứ? - lão Do Thái hỏi.
- Vâng, vâng, cháu xem chúng có vẻ dày cộm đấy. - Láu Cá nói và lôi chúng ra khỏi túi của mình.
- Chuyện này có thể tốt hơn. - lão già Do Thái nhận xét sau khi đã xem xét hai cái ví. - Nhưng cũng có thể tồi hơn. Ví chỉ mới được sử dụng và người sản xuất ra chúng là một anh thợ tốt, đã dùng những vật liệu cực kỳ. Phải không, Oliver?
- Vâng, thưa ông. - Oliver đáp.
Những lời nói của cậu bé tỏ ra ngây thơ đến nỗi Charlot ôm bụng bật cười.
- Khá ồn đấy, - lão già nói, - Charlot, còn cháu mang về cái gì thế?
- Bốn chiếc khăn taỵ - Chàng thanh niên trả lời.
- Đưa chúng đây. - Lão Do Thái nói và xem xét chúng cẩn thận. - Chúng đẹp đấy, nhưng cần phải dùng kim tháo "mác" ra. Đó là một công việc cần thiết mà Oliver có thể làm được. Chúng ta sẽ chỉ cho nó cách làm như thế nào. Phải không Oliver? Công việc này sẽ làm cháu hài lòng, anh bạn của tạ Chúng ta đồng ý chứ?
- Vâng, thưa ông, cháu sẽ vâng lệnh ông. - Cậu bé nhẹ nhàng trả lời.
- Ta chắc là, - lão Do Thái nói tiếp, - cháu sẽ tự hào được làm việc như Charlot Bates và mang về những chiếc khăn taỵ Nào, trả lời đi!
- Cháu sẽ cố gắng hết sức, nếu ông cho cháu những lời khuyên và chỉ bảo cho cháu. - Oliver nói.
Câu trả lời của cậu bé có vẻ thú vị đến độ Charlot phá lên cười một lần nữa và hắn suýt sặc khi nuốt ngụm cà phê.
- Xin lỗi. - Hắn nói với cả bọn. - Tôi đã không thể nhịn được, tôi chưa bao giờ thấy một đứa trẻ nào ngây thơ đến như vậy!
Láu Cá không nói một lời nào, gã chỉ lùa tay vào tóc Oliver, làm nó bù xù lên và xõa xuống mắt em.
- Nó sẽ nhanh biết thôi. - Charlot tiếp lời.
- Hãy chuyển sang những chuyện nghiêm túc.
- Lão Fagin vừa nói vừa chuẩn bị những việc rất kích thích sự tò mò của cậu bé Oliver.
Lão già Do Thái dường như sửa soạn chơi với hai anh chàng thanh niên. Lão để một hộp đựng thuốc rê vào trong một túi quần một quyển sổ vào túi kia. Một chiếc đồng hồ lớn được đặt trong túi con ở quần có đính dây xích an toàn chắc chắn; áo sơ mi của lão được tô điểm thêm bởi một cái kẹp ánh lên như vàng. Fagin cài cúc áo lên tít cao và không quên bỏ vào túi áo vét cái hộp kính và chiếc.khăn taỵ Sau đấy, lão bắt đầu đi lại quanh phòng với bộ dạng những quý ông đang dạo mát trên đại lộ.
Cứ như thế lão già Do Thái đóng kịch và Char-lot theo dõi cả những cử chỉ nhỏ nhất của lão với sự chú ý cao độ. Lão già cầm cây gậy chống và bước đi đường hoàng như một người đàn ông lương thiện đang vui sống. Lão đi dọc, đi ngang, dừng lại trước lò sưởi, sau đó lại tiếp tục dạo quanh phòng và dừng lại trước cửa. Lão cúi xuống như thể đang ngắm nghía những gian hàng lộng lẫy.
Oliver không rời mắt khỏi lão. Đôi khi, lão già Fagin nhìn quanh như thể lão sợ kẻ trộm. Lão sờ túi như sợ mất cái gì đó và cử chỉ của lão rất buồn cười, dáng vẻ của lão tỏ ra hài hước đến nỗi Oliver cười chảy cả nước mắt và cậu bé tự hỏi trò chơi vui nhộn này sẽ kết thúc như thế nào. Cậu sẽ biết ngay thôi.
Charlot và Láu Cá theo sau người đi dạo, chúng cũng tiến một bước khi người này tiến và cố gắng lại gần người đó hết mức có thể. Nhưng lão già không để mình mắc bẫy, lão đột ngột quay lại và hai anh chàng này lẩn đi, nhanh chóng đến kinh ngạc.
Trò chơi còn tiếp tục một lát nữa, sau đó, lão Fagin bị chặn trước, chặn sau, một anh giẫm lên chân lão, anh kia xô lão và tất cả những gì lão Do Thái mang theo: khăn tay, hộp kính, cái kẹp sáng lấp lánh, hộp đựng thuốc rê, sổ, đồng hồ... bị tước mất khỏi lão như một phép kỳ diệu.
Trò chơi lại bắt đầu. Khi lão già cảm thấy một bàn tay đang thò vào một trong những chiếc túi của mình, lão nói luôn. Thế là, trò chơi dừng và tất cả bắt đầu lại. Lão Fagin tiếp tục dạo quanh và hai anh bạn không ngừng theo sát lão và lột những gì mà lão có.
Oliver vui đùa như điên rồ và ngầm thích thú với ý định một ngày nào đó có thể bắt chước Char-lot và Láu Cá.
Một lát sau, có hai người đàn bà trẻ tuổi tên là Betty và Nancy đến. Oliver nhận thấy ngay rằng giày của họ ít được lau chùi cẩn thận và áo váy của họ đáng ra nên chữa lại. Hai cô mới đến này không đẹp nhưng họ ngẩng cao đầu và có vẻ trâng tráo.
Dường như không có gì làm họ hoảng sợ. Cả hai cô nói cùng một lúc và cung cách của họ làm Oliver thích thú, em tự nhủ:
- Các cô này có vẻ dễ thương.
Cuộc viếng thăm kéo dài và các cô nói rằng dạ dày của họ đã đóng băng. Ngay lập tức, rượu mùi được mang ra và cuộc nói chuyện càng lúc càng trở nên sôi nổi. Đến một lúc, Charlot tuyên bố:
- Các bạn, đến giờ vận dụng cặp giò rồi! Oliver không hiểu ngay ý nghĩa của câu nói nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai chàng này đi ra cùng với hai cô, em biết rằng "vận dụng cặp giò" nghĩa là "đi ra ngoài". Oliver thấy lão Do Thái đưa cho các cô cậu này ít tiền, chắc là để họ có thể giải trí chút đỉnh trên đường, như một ông bố cư xử với con cái.
- Thế nào? Anh bạn thấy ra sao? - Lão Fagin hỏi khi còn lại một mình với cậu bé Oliver. - Đó là một cách sống làm nhiều người thích thú. Hãy nghĩ rằng họ được tự do đi đâu tùy thích. Điều đó không cám dỗ cháu ư?
- Thế họ đã làm xong công việc của mình rồi ạ? - Oliver hỏi.
- Dĩ nhiên. - Lão Do Thái trả lời. - Nhưng có thể từ giờ đến tối, chúng tìm thấy điều gì đó để làm. Cháu hiểu rằng chúng sẽ không để lỡ cơ hội.
Ta khuyên cháu hãy theo gương chúng. Hãy bắt chước chúng, xin chúng lời khuyên, cháu sẽ không thiệt đâu.
Vừa nói, lão già vừa nhen lại lửa và những nhát xẻng lão giáng xuống là tăng thêm sức mạnh cho lời lẽ của lão.
- Hãy nghe đây, Oliver! - Lão tiếp lời. - Hãy làm những gì chúng sẽ nói với cháu, đừng cằn nhằn khi chúng ra cho cháu một mệnh lệnh. Luôn để mắt đến Láu Cá, nó quả là có tài và nó sẽ trở thành một vĩ nhân. Nếu cháu theo gương nó, cháu có thể chắc chắn rằng tương lai của mình được bảo đảm và cháu sẽ không bao giờ đói.
- Liệu cháu có học được cách chơi như lúc nãy ông đã làm không ạ? - Oliver ngây thơ hỏi.
- Ồ, có chứ! - Lão Fagin vừa nói vừa mỉm cười.
- Hãy nhìn xem, khăn tay của ta lòi ra khỏi túi một chút, cháu có thấy không?
- Có, thưa ông.
- Thế thì này, để làm tốt, cần phải lấy nó mà ta không hề nhận thấy... như những đứa khác đã làm sáng naỵ Cháu đã quan sát chúng khá kỹ. Nào hãy thử xem.
Oliver làm hết sức mình, em cố gắng làm hài lòng lão già và xoáy được chiếc khăn tay khá khéo léo như em đã thấy Láu Cá và Charlot làm.
- Được chưa cháu? - Lão Fagin hỏi.
- Khăn tay đây! - Cậu bé tự hào trả lời.
- Ta khen ngợi cháu Oliver, hiếm khi ta thấy kẻ nào khéo léo như cháu. Này, ta thưởng cho cháu một đồng xụ Nếu cháu tiếp tục, cháu cũng trở thành một vĩ nhân. Bây giờ, hãy lại gần ta, ta sẽ dạy thêm cho cháu một bài học nữa. Cháu sẽ biết tháo nhãn những chiếc khăn tay ngay thôi.
Oliver đã không hiểu được rằng ăn cắp là công việc duy nhất của lão Fagin và đồng bọn. Em ngạc.nhiên tự hỏi làm thế nào có thể trở nên nổi tiếng chỉ bằng cách nẫng nhẹ những chiếc khăn tay.
- Này! - Lão già Do Thái kêu lên. - Đừng ngồi ì ra không làm gì, đến đây, đây là những chiếc khăn tay, hãy nhìn xem làm thế nào ta bỏ đi nhãn mác của chúng và hãy khéo léo bắt chước ta hết mức có thể.
Lão Do Thái giam giữ Oliver trong nhiều ngày.
Lão cấm em ra ngoài và luôn theo sát em từ sáng đến tối. Những chiếc khăn tay đổ dồn vào nhà lão già và Oliver không có một phút nào rảnh rỗi nếu em muốn tháo nhãn tất cả những chiếc khăn. Đôi khi, em cũng có vài phút nghỉ ngơi khi lão Fagin, Charlot và Láu Cá lao vào trò chơi mà chúng tôi đã miêu tả ở trên. Mỗi buổi sáng, lão Do Thái lại đi dạo quanh phòng và hai anh chàng cố gắng lấy gọn nhiều thứ chất đầy túi lão. Sự khéo léo của các anh chàng này khiến Oliver thích thú ngưỡng mộ.
Sau một thời gian, cậu bé thấy đau khổ vì bị giam giữ, em bắt đầu thèm khí trời và nhiều lần em xin phép lão già Fagin cho ra ngoài và đi làm như hai anh bạn đồng hành của mình.
Oliver càng muốn được sử dụng một cách hiệu quả hơn vì em có thể thấy sự nghiêm khắc của lão già. Mỗi lần, Láu Cá và Charlot trở về tay không vào buổi tối, lão lại nói dài dòng về tính chất có hại của sự lười biếng. Lão cho các anh chàng thấy sự cần thiết của một cuộc sống năng động bằng cách bắt các anh đi ngủ không ăn tối. Thậm chí, lão còn đi đến mức đẩy các anh ngã xuống cả một loạt bậc thang. Oliver muốn tỏ ra có ích đối với một ông chủ khó tính đến như vậy.
Cuối cùng, vào một buổi sáng, lão Fagin gọi cậu bé Oliver đến.
- Thằng bé nghịch ngợm, hãy lại đây, ta báo cho cháu một tin trọng đại.
- Cháu xin nghe, thưa ông.
- Hôm nay, ta cho phép cháu ra ngoài. Ta hy vọng cháu sẽ xứng đáng với những bài học và lời khuyên mà ta đã cho cháu. Ta đặt cháu dưới sự trông chừng của Charlot và Láu Cá. Cháu biết giá trị của chúng mà. Hãy vâng lệnh chúng và cố gắng hết sức để bắt chước chúng.