trinhqtoan
12-06-2012, 10:15 AM
HỘI CHỨNG SUY HÔ HẤP CẤP Ở NGƯỜI LỚN
(S.D.R.A.A Syndrome de détresse respiratoire chez l’ adulte)
I. ĐẠI CƯƠNG:
I.1. Những từ đồng nghĩa với S.D.R.A.A :
- Theo nguyên nhân: phổi sốc, suy hô hấp sau chấn thương.
- Theo giải phẫu học: xẹp phổi sung huyết, phổi đặc, phổi ướt, bệnh lý màng trong (membrane hyaline).
- Theo chức năng: phổi cứng (poumon rigide – stiff lung), thiếu Oxy máu trơ.
- Theo hình ảnh X. Quang: phổi trắng.
I.2. Định nghĩa:
Theo Asbaugh (1967): “Là các trường hợp suy hô hấp cấp nghiêm trọng xảy ra trên bệnh nhân không có tiền căn bệnh lý hô hấp và tim mạch”.
Cần phân biệt với bệnh màng trong (Maladie de la membrane hyaline) ở trẻ sơ sinh, giống với S.D.R.A.A về lâm sàng cũng như giải phẫu học.
I.3. Hoàn cảnh xuất hiện: Những nguyên nhân chính gây tổn thương trực tiếp hoặc gián tiếp thành phế nang mao mạch:
Tổn thương trực tiếp
+ Nhiễm khuẩn: siêu vi, vi khuẩn, lao
+ Chấn thương lồng ngực: đụng dập phổi
+ Hội chứng “hít”:
Hội chứng Meldelson
Chết đuối
Thở Oxy nguyên chất.
Khí độc (CO)
+ Hội chứng lấp mạch: do mỡ, nước ối.
+ Nhiễm phóng xạ nặng.
Tổn thương gián tiếp
+ Sốc nhiễm khuẩn, chấn thương, chảy máu
+ Ngộ độc: Heroine, Methadone, thuốc ngủ, Aspirine.
+ Truyền máu khối lượng lớn.
+ Tuần hoàn ngoài cơ thể
+ Phản ứng phản vệ.
+ Viên tụy.
+ Tổn thương TKTW
I.4. Sinh lý bệnh:
- Tổn thương thành phế nang mao mạch, tăng tính thấm thành mao mạch Ò xâm chiếm nhu mô phổi khe kẽ và phế nang do dịch phù có tỉ lệ Protide và Fibrine gần bằng huyết tương.
- Tổn thương phổi tiến triển qua 3 giai đoạn: phù nề, tạo thành màng trong và cuối cùng là xơ phổi.
I.5. Hình ảnh giải phẫu:
- Giai đoạn phù nề: phù nề phế nang và khe kẽ kết hợp với sung huyết mao mạch. Hồng cầu, bạch cầu xâm nhập tương bào phổi- Tổn thương pneumocytes loại I chủ yếu.
- Giai đoạn tạo thành màng trong (trung gian): ngày thứ 2 hay thứ 3, là đặc điểm của SDRAA, giúp phân biệt với phù nề có nguồn gốc từ tim.
Màng trong được cấu tạo từ các chất chuyển hóa Protein, những đám Fibrine và các mảnh hoại tử của pneumocytes loại I. Chúng phủ lên bề mặt phế nang gây giảm hoạt động các tế bào phổi có hạt, các chất nhầy bài tiết ít đi, phế nang có xu hướng bị xẹp.
- Giai đoạn xơ phổi: Trong khi phù nề phế nang đang trong quá trình hấp thụ, biểu mô phế nang lại dầy lên dần do các tế bào pneumocytes loại I bị hoại tử.
Các mô sợi xuất hiện vào ngày thứ 6 – 7e, xâm chiếm các màng trong và tổ chức khe kẽ phổi, kể cả các tiểu phế quản và mao mạch. Cấu trúc phổi sẽ bị thay đổi hoàn toàn bởi 2 quá trình: phát triển tổ chức xơ và phục hồi tế bào loạn xạ.
Trong các trường hợp nặng, phổi sẽ biến dần thành một khối xơ, nhiều khối u xâm chiếm lòng các phế nang.
I.6. Cơ chế tổn thương phổi:
I.6.1. Nhiều tế bào trở nên hoạt hoá và giải phóng vô số các chất trung gian:
Các tế bào biểu mô giải phóng P.A.F (yếu tố hoạt hóa tiểu cầu: platelet activing factor), Cytokines, Prostanoides, tạo thuận lợi cho:
- Các bạch cầu đa nhân trung tính giải phóng nhiều chất trung gian hoá học và hoạt hóa bổ thể, nhất là C5a, hình thành các đám keo kết đa nhân trung tính.
- Hiện tượng thực bào: hoạt hóa và giải phóng Cytokines, TNF (Tumor necrosis factor), IL1 (Interleukine), ILs Luecotrienes, PAF và các yếu tố hướng hóa học cho đa nhân trung tính.
Vai trò của biểu mô ngày nay được xem như là yếu tô chủ yếu của “phản ứng viêm”. Về sau, các đám keo kết đa nhân trở thành các hòn máu tắc trong vi tuần hoàn, giải phóng các men làm tiêu hủy đạm và các ions superoxydes gây phá hủy thành cá mao mạch nhỏ.
I.6.2. Rối loạn tính thấm màng phế nang- mao mạch:
Phản ứng viêm gây giải phóng các chất có tác dụng đối với trương lực mạch máu: Angiotensine, Bradykinine, Histamine, Sérotonine, Catécholamine, Prostaglandine, SRA (Slow yeacting of anaphylaxis), Monoxyde azote, Endothéline.
I.6.3. Rối loạn đông máu:
Các đám keo kết tiểu cầu và hòn vi máu tắc của fibrine là nguyên nhân gây rối loạn các yếu tố đông máu trong bệnh sinh SDRAA, hình thành hội chứng đông máu rải rác nội mạch (CIVD): Coagulation Intravasculaire Disséminée, biểu hiện một yếu tố tăng nặng của bệnh lý.
I.6.4. Hủy hoại thành phế nang - mao mạch:
Do phản ứng giữa nhiều chất trung gian với nhau, thúc đẩy quá trình viêm phát triển dẫn đến hủy hoại các thành phế nang mao mạch ít hay nhiều, thậm chí nghiêm trọng. Các thành phần bị hủy hoại thường thấy: các protein cấu trúc Protéoglycanes, Fibronectine.
Hủy hoại màng căng làm cho phế nang xẹp nặng hơn.
I.6.5. Những yếu tố khác:
Có thể làm nặng hơn hoặc hủy hoại tổn thương phổi: FiO2 cao (> 60%), thừa nước, nhiễm khuẩn, đặc biệt vào giai đoạn xơ hóa.
Nói tóm lại: Các hiện tượng khởi đầu của SDRAA xuất hiện vừa nhiều, vừa phức tạp, do đó mà không có các chỉ điểm về mặt sinh vật học của SDRAA.
I.7. Tác động đến sự trao đổi khí – máu:
I.7.1. Vào giai đoạn đầu của rối loạn trao đổi khí – máu:
- Các phế nang bị dịch phù nề xâm chiếm.
- Xuất hiện xẹp phế nang và tiểu phế quản. Xẹp phế nang do màng căng bị tổn thương, còn phế quản nhỏ bị xẹp là do phù nề khe kẽ gây tăng áp lực lên thành ngoài gây chèn ép. Do đó một số vùng phế nang không còn được thông khí nữa hoặc thông khí kém.
Các nghiên cứu bằng khí trơ (gazinertes) cho thấy: thiếu Oxy máu do xuất hiện các vùng có VA/Q = 0 (có đường nối tắc thật sự) hoặc VA/Q thấp (hiệu ứng nối tắc: shunt effect)
I.7.2. Vào giai đoạn cuối cùng:
Rối loạn khuyếch tán và xuất hiện ưu thán. Cơ chế chưa được giải thích rõ ràng. Rối loạn khuyếch tán có thể do tăng đáng kể hàng rào khí – máu. Còn ưu thán là do có sự phục hồi các phế nang, không hoạt động làm tăng khoảng chết hô hấp.
II. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ XÉT NGHIỆM THƯỜNG QUY:
II.1. Lâm sàng:
· Suy hô hấp: Nổi bật hàng đầu, suy hô hấp đột ngột, dữ dội, tiến triển. Tần số hô hấp luôn luôn cao, các cơ thở phụ tham gia hoạt động, cánh mũi phập phồng. Tím tái: nặng, thường xuyên, Oxy liệu pháp không có tác dụng. Bệnh nhân thường dãy dụa, vật vã.
· Tim mạch: mạch thường > 120 l/p, huyết áp: còn bình thường trừ trường hợp có sốc nhiễm khuẩn hoặc sốc giảm thể tích phối hợp.
· Nhiệt độ: thường tăng kể cả khi không có nhiễm khuẩn.
· Tăng tiết đàm dãi: đôi khi rất nhiều, lẫn máu (nhưng không thường xuyên).
· Nghe phổi: điển hình là rên ẩm 2 bên phế trường nhưng có thể bị che lấp bởi rên phế quản.
II.2. X.Quang:
Trong giai đoạn phù nề: Các đám mờ khe kẽ và phế nang phối hợp. Các đường viền mạch máu không còn rõ nét, miệng cắt phế quản dày hoặc bị che lấp bởi hình ảnh phế nang. Ở 2 bên phế trường, trên đỉnh cũng như dưới đáy, nhận thấy các đám mờ đậm đặc, đường viền mờ, nổi bật ở vùng ngoại vi phổi (với hình ảnh bơm hơi trái ngược với các đám mờ do phù nề, tỷ lệ tim phổi không thay đổi trên phim X.Quang lồng ngực)
II.3. Điện tim:
Nhịp nhanh xoang. Trường hợp thiếu máu nghiêm trọng, có thể thấy rối loạn tái cực. Hình ảnh ECG giúp chẩn đoán phân biệt với bệnh lý tim.
II.4. Hội chứng thể dịch:
- Thiếu Oxy thường xuyên và nặng: PaO2 < 50 mmHg (6,5 KPa) có thể xuống đến 30 mmHg (4 KPa). Thiếu Oxy có tính chất “trơ” vì dù có cho nhiều Oxy đi nữa thì PaO2 cũng không cải thiện bao nhiêu. Về mặt lý thuyết, nếu với FiO2 = 0,6 mà PaO2 vẫn < 50 mmHg, là tiêu chuẩn được coi như là đặc điểm của SDRAA. Hoặc nếu PaO2 / FiO2 < 200 là chỉ tiêu chẩn đoán SDRAA.
- Thiếu O2 đôi khi kèm theo nhược thán (hypocapnie) Ò nhiễm kiềm. Hoặc nhiễm toan chuyển hóa có nguồn gốc lactique, đặc biệt khi có sốc phối hợp.
- Tăng tiết niêm dịch: tỷ lệ đạm trong niêm dịch tăng, gần bằng huyết tương, thể hiện rõ rối loạn tính thấm thành phế nang – mao mạch.
II.5. Huyết động lực:
- Ap lực mao mạch phổi (áp lực động mạch phổi bịt): bình thường hoặc thấp. Với phương thức thông khí nhân tạo PEEP, áp lực có thể cao nhưng sau khi bỏ máy thở sẽ xuống thấp trong thời gian ngắn. Là một trong những thông số chủ yếu của SDRAA, xác định bản chất tổn thương của phù phổi.
- Ap lực động mạch phổi: có thể bình thường lúc ban đầu nhưng sẽ nhanh chóng xuất hiện tăng áp lực động mạch phổi trước mao mạch, do trong giai đoạn này có hiện tượng co mạch do thiếu Oxy. Trong trường hợp tiến triển không thuận lợi áp lực động mạch phổi sẽ tăng rất nhanh.
- Chỉ số tim: bình thường hoặc tăng (dao động). Nếu chỉ số tim giảm, phải nghĩ đến giảm thể tích lưu hành.
II.6. Các thể tích phổi:
- Dung tích sống giảm, thể tích tồn dư chức năng (CRF) giảm do có nước trong phổi và xẹp phế nang. Ngược lại thể tích đóng (VF) tăng do cac phế nang và tiểu phế quản mất ổn định và có khi tăng hơn cả CRF.
- Ngoài ra còn tiến hành các nghiệm pháp nghiên cứu cơ học hô hấp như: độ dãn nở phổi động lực, độ dãn nở phổi tĩnh và đồ thị thực hiện khi thở vào.
+ Ơ người bình thường: đồ thị thường thẳng, tăng thể tích tỉ lệ thuận với tăng áp lực.
+ SDRAA: đồ thị nghiêng bên phải và thấp, càng thấp khi phổi đã bị xơ hóa.
II.7. Chẩn đoán:
II.7.1. Không có dấu hiệu lâm sàng hoặc sinh vật học đặc hiệu. Nói chung, chẩn đoán dựa vào sự phối hợp của nhiều yếu tố sau đây:
- Hoàn cảnh xuất hiện.
- Không có tiền căn bệnh lý BPCO hoặc suy thất trái.
- Khó thở nhanh, tím tái.
- Những đám mờ rãnh liên thùy và/hoặc 2 bên phế trường.
- PaO2 < 50 mmHg (6,7 KPa) với FiO2/ 60%. PaO2 / FiO2 < 200.
- Ap lực mao mạch phổi < 12 mmHg.
- Độ đàn hồi phổi giảm.
Trong các yếu tố kể trên, PaO2 giảm kém chính xác nhất. Từ năm 1994, quan điểm chẩn đoán SDRAA dựa trên chỉ số PaO2 / FiO2 đã được thay đổi.
II.7.2. Chẩn đoán phân biệt:
- Trong giai đoạn đầu, khi chưa xuất hiện các đám mờ nhu mô phổi rõ rệt, có thể nghĩ đến “lấp mạch phổi”.
- Trước các hình ảnh phù nề, cần chẩn đoán phân biệt với phù phổi cấp do tim (áp lực mao mạch phổi tăng, chỉ số tim giảm).
- Bệnh lý phổi do vi khuẩn: với các thể phù nề là chủ yếu, là bệnh cảnh của SDRAA.
II.8. Tiến triển:
II.8.1. Thuận lợi:
PaO2 tăng nhanh với mức PEEP không > 5 cmH2O và FiO2 = 0,4, hình ảnh phù nề rút lui trong vài ngày. Độ dãn nở phổi tăng.
II.8.2. Không thuận lợi:
Xuất hiện “phổi bị xơ hóa”. Đầu tiên, các đám mờ nhu mô phổi rút lui (trên X.Quang: hình ảnh hầu như bình thường), tưởng rằng bệnh đã khỏi. Nhưng đồng thời với PaO2 giảm, lại xuất hiện các đám mờ “võng mạc nội mô” phối hợp với hình các bóng khí, chủ yếu ở rìa ngoại vi phổi. Thở máy ngày càng trở nên khó khăn. Bệnh nhân thở nhanh, khó thích nghi với máy, cần phải cho nhiều thuốc an thần. Ap lực thở vào đòi hỏi cao. Phương thức thở PEEP trở nên không hiệu quả, PaO2 giảm nặng, phải đặt FiO2 cao. Tuy nhiên PaO2 ngày càng tăng, phổi không thể thông khí được nữa. Đồng thời xuất hiện các biến chứng của thở máy: tràn khí phế mạc, tràn khí trung thất. Ap lực ĐMP rất cao, trong các trường hợp nghiêm trọng gây suy thất phải + gan to.
Trong giai đoạn xơ phổi thường xảy ra bệnh lý phổi do nhiễm khuẩn bệnh viện. Chẩn đoán khó khăn: sốt cao, BC tăng. Hình ảnh X.Quang khó thuyết minh abcès hay hoại tử. Cấy bệnh phẩm giúp xác định nguyên nhân.
Tiên lượng: Xơ hóa lan rộng, tỉ lệ tử vong rất cao. Ơ một số ít bệnh nhân còn sống sót, chỉ có chẩn đoán tổ chức học mới xác định được tình trạng xơ phổi.
II.9. Di chứng:
- Ở bệnh nhân không có xơ hóa lan rộng, mặc dù bệnh cảnh rầm rộ như đã mô tả, nhưng khi lành bệnh di chứng để lại không lớn, ngoại trừ khả năng khuyếch tán CO2.
- Ở bệnh nhân có hiện tượng xơ phổi, khi bỏ máy thở, các hiện tượng bất thường còn tồn tại trong vài tháng. Và đôi khi cũng có thể rút lui một cách đáng ngạc nhiên.
III. ĐIỀU TRỊ:
III.1. Điều trị triệu chứng: Chủ yếu là Oxy liệu pháa + thở PEEP. Ngoài ra, một số thuốc khác và phương thức thở khác nhau cũng được đề nghị
III.1.1. Oxy liệu pháp: Trong SDRAA, thiếu Oxy máu là do hiện tượng ”nối tắt phổi”. Oxy liệu pháp qua ống thông mũi hoặc qua mặt nạ dù với FiO2 cao (=1) đều không hiệu quả và nguy hiểm.
III.1.2. Thông khí nhân tạo với phương thức PEEP:
- Mục đích để duy trì áp lực của thì thở ra trong đường thở cao hơn áp lực khí quyển, nói cho đúng hơn là áp lực tồn dư ở cuối thì thở ra dương tính. PEEP làm mở các tiểu phế quản và phế nang bị bít tắc để tránh xẹp phổi thì thở ra. Thể tích khí trong lồng ngực tăng, CRF tăng, thể tích đóng (VF, vốn cao hơn là CRF trong SDRAA) trở nên thấp hơn. PEEP làm tăng PaO2và làm giảm “nối tắt trong phổi”.
- Nhưng PEEP có thể gây biến chứng hô hấp và tim mạch, hậu quả của tăng áp lực trong lồng ngực (chấn thương do áp lực) và tăng thể tích phổi (chấn thương do thể tích).
+ Biến chứng hô hấp: tràn khí dưới da, phế mạc và nhất là trung thất.
+ Biến chứng tim mạch: tăng thêm các biến chứng về huyết động lực của thở máy. Hoạt động của cả 2 thất đều bị rối loạn:
ú Thất phải: tiền gánh giảm, dòng máu tĩnh mạch trở về giảm do áp lực trong lồng ngực trở nên (+) trong cả 2 chu kỳ thở. Hậu gánh tăng do các mao mạch phổi bị xẹp và bị kéo giật ® dãn buồng thất, vách liên thất phình lên và lấn sang trái (hiện tượng phụ thuộc liên đới thất).ô2
ú Thất trái: Tiền gánh giảm do nhát bóp tâm thu thất phải giảm và hiện tượng phụ thuộc liên đới thất. Hậu gánh giảm và thất trái đẩy máu đi được dễ dàng nhờ áp lực (+) trong lồng ngực.
Những rối loạn về huyết động lực giải thích cho lưu lượng tim giảm ® giảm vận chuyển Oxy trong máu ĐM mặc dù PaO2 tăng.
- Để tránh các hậu quả xấu do PEEP: cần phải tăng lưu lượng tim hoặc giảm áp lực trong lồng ngực với các phương thức thở đặc biệt.
+ Tăng lưu lượng tim: LLT giảm nếu PEEP > 10 cmH2O. Có thể bù đắp bằng:
ú Đổ đầy mạch máu bằng các dung dịch đại phân tử (300 – 400 ml) theo từng mức 5 cm H2O.
ú Sử dụng các thuốc cường giao cảm, nhất là Dopamine làm tăng dòng máu tĩnh mạch trở về bằng co thắt mạch máu (liều thường dùng: 5 – 15 mcg/kg/phút). Trong trường hợp LTT giảm mạnh, có thể phối hợp Dobutamine để giảm khối lượng dịch truyền, đề phòng phù phổi cấp (mặc dù thở PEEP), cũng như tạo thuận lợi cho phổi bị xơ hóa.
(Nhắc lại: dưới tác dụng của PEEP, tăng lưu lượng tim không làm cho “nối tắt phổi” nặng thêm, nhờ 2 hiện tượng: mở lại các phế nang bị xẹp và các mao mạch bị bẹp, hạn chế huyết tương thoát mạch)
+ Các phương thức thở đặc biệt của PEEP:
ú Thở tự nhiên với áp lực dương thở ra liên tục (VS – PEEP hay CPAP).
ú Thở điều khiển ngắt quãng: VCI hay IMV.
ú Thở áp đặt thay đổi (Ventilation imposée variable: VIV) hoặc (MMV: Mandatory minute ventilation)
ú Hỗ trợ áp lực (PS: Pressure support) hoặc “hỗ trợ thở vào” (AI: Aide inspiratoire)
ú Thở thành tia với tần số cao (JVHF: Jet ventilation à haute fréquence hoặc HFJV: High frequency jet ventilation)
III.1.3. Lợi niệu: giống như phù phổi cấp do tim cần rút bớt nước bằng các thuốc lợi niệu có tác dụng mạnh (Furosémide). Tuy nhiên, trong trường hợp phù phổi cấp tổn thương, tác dụng của thuốc ít rõ rệt hơn.
III.1.4. Tăng PaO2 vừa phải: giảm lưu lượng tim thứ phát do giảm thể tích lưu hành có thể là nguyên nhân của giảm vận chuyển Oxy trong máu ĐM mặc dù PaO2 tăng. Mặt khác, giảm lưu lượng tim cũng dẫn đến tái phân phối dòng máu ở phổi. Tuy nhiên, trong các trường hợp tăng TTLH cần phải được điều chỉnh bằng thuốc lợi niệu, bởi vì trong phế nang sẽ tăng một lượng dịch giàu protein và fibrine. Hiện tượng này không những làm cho trạng thái thiếu Oxy tăng thêm lên mà còn tạo thuận lợi cho phổi bị xơ hóa.
III.1.5. Thuốc chống đông: Héparine tĩnh mạch để ngăn ngừa và điều trị hội chứng CIVD. Tác dụng điều trị của Héparine không rõ rệt lắm, do không có vai trò trực tiếp trong cơ chế bệnh sinh của SDRAA. Để phòng ngừa, thường dùng Héparinate calcium hoặc Héparine có TLPT thấp (Faxiparine) tiêm dưới da.
III.2. Các phương thức điều trị đặc biệt:
Nhằm hạn chế các tai biến của thở máy, hoặc trong các thể điều trị không đem lại kết quả với các biện pháp điều trị thông thường, hoặc để đối phó với trạng thái thiếu Oxy trơ có tỉ lệ tử vong cao.
III.2.1. Tỷ lệ I/E đảo ngược: Mục đích tăng thì thở vào dài hơn thì thở ra để tạo nên một PEEP nội tại cũng có lợi ích như PEEP ngoại lai, nhưng với áp lực thấp hơn. Trên thực tế, lợi ích này chưa được chứng minh rõ rệt.
III.2.2. Trạng thái ưu thán có thể chấp nhận được (Hypercapnie permissive): Thực hiện bằng cách hạn chế áp lực thở vào < 40 cmH2O và giảm thể tích khí thường lưu.
III.2.3. Monoxyde azote: phối hợp trong hỗn hợp khí thở vào một lượng nhỏ NO (10 – 20 ppm), có thể làm dãn mạch máu các vùng được thông khí tốt, đôi khi giúp tăng PaO2 một cách đáng kể.
III.2.4. Thanh lọc CO2 ngoài cơ thể: chỉ riêng CO2 được thanh lọc qua một màng phổi nhân tạo, còn cung cấp Oxy được thực hiện bằng một lưu lượng Oxy liên tục, cho thẳng vào khí quản qua một cathéter, bằng thở máy với tần số thấp + PEEP.
b-):-s=;=d][-o[
(S.D.R.A.A Syndrome de détresse respiratoire chez l’ adulte)
I. ĐẠI CƯƠNG:
I.1. Những từ đồng nghĩa với S.D.R.A.A :
- Theo nguyên nhân: phổi sốc, suy hô hấp sau chấn thương.
- Theo giải phẫu học: xẹp phổi sung huyết, phổi đặc, phổi ướt, bệnh lý màng trong (membrane hyaline).
- Theo chức năng: phổi cứng (poumon rigide – stiff lung), thiếu Oxy máu trơ.
- Theo hình ảnh X. Quang: phổi trắng.
I.2. Định nghĩa:
Theo Asbaugh (1967): “Là các trường hợp suy hô hấp cấp nghiêm trọng xảy ra trên bệnh nhân không có tiền căn bệnh lý hô hấp và tim mạch”.
Cần phân biệt với bệnh màng trong (Maladie de la membrane hyaline) ở trẻ sơ sinh, giống với S.D.R.A.A về lâm sàng cũng như giải phẫu học.
I.3. Hoàn cảnh xuất hiện: Những nguyên nhân chính gây tổn thương trực tiếp hoặc gián tiếp thành phế nang mao mạch:
Tổn thương trực tiếp
+ Nhiễm khuẩn: siêu vi, vi khuẩn, lao
+ Chấn thương lồng ngực: đụng dập phổi
+ Hội chứng “hít”:
Hội chứng Meldelson
Chết đuối
Thở Oxy nguyên chất.
Khí độc (CO)
+ Hội chứng lấp mạch: do mỡ, nước ối.
+ Nhiễm phóng xạ nặng.
Tổn thương gián tiếp
+ Sốc nhiễm khuẩn, chấn thương, chảy máu
+ Ngộ độc: Heroine, Methadone, thuốc ngủ, Aspirine.
+ Truyền máu khối lượng lớn.
+ Tuần hoàn ngoài cơ thể
+ Phản ứng phản vệ.
+ Viên tụy.
+ Tổn thương TKTW
I.4. Sinh lý bệnh:
- Tổn thương thành phế nang mao mạch, tăng tính thấm thành mao mạch Ò xâm chiếm nhu mô phổi khe kẽ và phế nang do dịch phù có tỉ lệ Protide và Fibrine gần bằng huyết tương.
- Tổn thương phổi tiến triển qua 3 giai đoạn: phù nề, tạo thành màng trong và cuối cùng là xơ phổi.
I.5. Hình ảnh giải phẫu:
- Giai đoạn phù nề: phù nề phế nang và khe kẽ kết hợp với sung huyết mao mạch. Hồng cầu, bạch cầu xâm nhập tương bào phổi- Tổn thương pneumocytes loại I chủ yếu.
- Giai đoạn tạo thành màng trong (trung gian): ngày thứ 2 hay thứ 3, là đặc điểm của SDRAA, giúp phân biệt với phù nề có nguồn gốc từ tim.
Màng trong được cấu tạo từ các chất chuyển hóa Protein, những đám Fibrine và các mảnh hoại tử của pneumocytes loại I. Chúng phủ lên bề mặt phế nang gây giảm hoạt động các tế bào phổi có hạt, các chất nhầy bài tiết ít đi, phế nang có xu hướng bị xẹp.
- Giai đoạn xơ phổi: Trong khi phù nề phế nang đang trong quá trình hấp thụ, biểu mô phế nang lại dầy lên dần do các tế bào pneumocytes loại I bị hoại tử.
Các mô sợi xuất hiện vào ngày thứ 6 – 7e, xâm chiếm các màng trong và tổ chức khe kẽ phổi, kể cả các tiểu phế quản và mao mạch. Cấu trúc phổi sẽ bị thay đổi hoàn toàn bởi 2 quá trình: phát triển tổ chức xơ và phục hồi tế bào loạn xạ.
Trong các trường hợp nặng, phổi sẽ biến dần thành một khối xơ, nhiều khối u xâm chiếm lòng các phế nang.
I.6. Cơ chế tổn thương phổi:
I.6.1. Nhiều tế bào trở nên hoạt hoá và giải phóng vô số các chất trung gian:
Các tế bào biểu mô giải phóng P.A.F (yếu tố hoạt hóa tiểu cầu: platelet activing factor), Cytokines, Prostanoides, tạo thuận lợi cho:
- Các bạch cầu đa nhân trung tính giải phóng nhiều chất trung gian hoá học và hoạt hóa bổ thể, nhất là C5a, hình thành các đám keo kết đa nhân trung tính.
- Hiện tượng thực bào: hoạt hóa và giải phóng Cytokines, TNF (Tumor necrosis factor), IL1 (Interleukine), ILs Luecotrienes, PAF và các yếu tố hướng hóa học cho đa nhân trung tính.
Vai trò của biểu mô ngày nay được xem như là yếu tô chủ yếu của “phản ứng viêm”. Về sau, các đám keo kết đa nhân trở thành các hòn máu tắc trong vi tuần hoàn, giải phóng các men làm tiêu hủy đạm và các ions superoxydes gây phá hủy thành cá mao mạch nhỏ.
I.6.2. Rối loạn tính thấm màng phế nang- mao mạch:
Phản ứng viêm gây giải phóng các chất có tác dụng đối với trương lực mạch máu: Angiotensine, Bradykinine, Histamine, Sérotonine, Catécholamine, Prostaglandine, SRA (Slow yeacting of anaphylaxis), Monoxyde azote, Endothéline.
I.6.3. Rối loạn đông máu:
Các đám keo kết tiểu cầu và hòn vi máu tắc của fibrine là nguyên nhân gây rối loạn các yếu tố đông máu trong bệnh sinh SDRAA, hình thành hội chứng đông máu rải rác nội mạch (CIVD): Coagulation Intravasculaire Disséminée, biểu hiện một yếu tố tăng nặng của bệnh lý.
I.6.4. Hủy hoại thành phế nang - mao mạch:
Do phản ứng giữa nhiều chất trung gian với nhau, thúc đẩy quá trình viêm phát triển dẫn đến hủy hoại các thành phế nang mao mạch ít hay nhiều, thậm chí nghiêm trọng. Các thành phần bị hủy hoại thường thấy: các protein cấu trúc Protéoglycanes, Fibronectine.
Hủy hoại màng căng làm cho phế nang xẹp nặng hơn.
I.6.5. Những yếu tố khác:
Có thể làm nặng hơn hoặc hủy hoại tổn thương phổi: FiO2 cao (> 60%), thừa nước, nhiễm khuẩn, đặc biệt vào giai đoạn xơ hóa.
Nói tóm lại: Các hiện tượng khởi đầu của SDRAA xuất hiện vừa nhiều, vừa phức tạp, do đó mà không có các chỉ điểm về mặt sinh vật học của SDRAA.
I.7. Tác động đến sự trao đổi khí – máu:
I.7.1. Vào giai đoạn đầu của rối loạn trao đổi khí – máu:
- Các phế nang bị dịch phù nề xâm chiếm.
- Xuất hiện xẹp phế nang và tiểu phế quản. Xẹp phế nang do màng căng bị tổn thương, còn phế quản nhỏ bị xẹp là do phù nề khe kẽ gây tăng áp lực lên thành ngoài gây chèn ép. Do đó một số vùng phế nang không còn được thông khí nữa hoặc thông khí kém.
Các nghiên cứu bằng khí trơ (gazinertes) cho thấy: thiếu Oxy máu do xuất hiện các vùng có VA/Q = 0 (có đường nối tắc thật sự) hoặc VA/Q thấp (hiệu ứng nối tắc: shunt effect)
I.7.2. Vào giai đoạn cuối cùng:
Rối loạn khuyếch tán và xuất hiện ưu thán. Cơ chế chưa được giải thích rõ ràng. Rối loạn khuyếch tán có thể do tăng đáng kể hàng rào khí – máu. Còn ưu thán là do có sự phục hồi các phế nang, không hoạt động làm tăng khoảng chết hô hấp.
II. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG VÀ XÉT NGHIỆM THƯỜNG QUY:
II.1. Lâm sàng:
· Suy hô hấp: Nổi bật hàng đầu, suy hô hấp đột ngột, dữ dội, tiến triển. Tần số hô hấp luôn luôn cao, các cơ thở phụ tham gia hoạt động, cánh mũi phập phồng. Tím tái: nặng, thường xuyên, Oxy liệu pháp không có tác dụng. Bệnh nhân thường dãy dụa, vật vã.
· Tim mạch: mạch thường > 120 l/p, huyết áp: còn bình thường trừ trường hợp có sốc nhiễm khuẩn hoặc sốc giảm thể tích phối hợp.
· Nhiệt độ: thường tăng kể cả khi không có nhiễm khuẩn.
· Tăng tiết đàm dãi: đôi khi rất nhiều, lẫn máu (nhưng không thường xuyên).
· Nghe phổi: điển hình là rên ẩm 2 bên phế trường nhưng có thể bị che lấp bởi rên phế quản.
II.2. X.Quang:
Trong giai đoạn phù nề: Các đám mờ khe kẽ và phế nang phối hợp. Các đường viền mạch máu không còn rõ nét, miệng cắt phế quản dày hoặc bị che lấp bởi hình ảnh phế nang. Ở 2 bên phế trường, trên đỉnh cũng như dưới đáy, nhận thấy các đám mờ đậm đặc, đường viền mờ, nổi bật ở vùng ngoại vi phổi (với hình ảnh bơm hơi trái ngược với các đám mờ do phù nề, tỷ lệ tim phổi không thay đổi trên phim X.Quang lồng ngực)
II.3. Điện tim:
Nhịp nhanh xoang. Trường hợp thiếu máu nghiêm trọng, có thể thấy rối loạn tái cực. Hình ảnh ECG giúp chẩn đoán phân biệt với bệnh lý tim.
II.4. Hội chứng thể dịch:
- Thiếu Oxy thường xuyên và nặng: PaO2 < 50 mmHg (6,5 KPa) có thể xuống đến 30 mmHg (4 KPa). Thiếu Oxy có tính chất “trơ” vì dù có cho nhiều Oxy đi nữa thì PaO2 cũng không cải thiện bao nhiêu. Về mặt lý thuyết, nếu với FiO2 = 0,6 mà PaO2 vẫn < 50 mmHg, là tiêu chuẩn được coi như là đặc điểm của SDRAA. Hoặc nếu PaO2 / FiO2 < 200 là chỉ tiêu chẩn đoán SDRAA.
- Thiếu O2 đôi khi kèm theo nhược thán (hypocapnie) Ò nhiễm kiềm. Hoặc nhiễm toan chuyển hóa có nguồn gốc lactique, đặc biệt khi có sốc phối hợp.
- Tăng tiết niêm dịch: tỷ lệ đạm trong niêm dịch tăng, gần bằng huyết tương, thể hiện rõ rối loạn tính thấm thành phế nang – mao mạch.
II.5. Huyết động lực:
- Ap lực mao mạch phổi (áp lực động mạch phổi bịt): bình thường hoặc thấp. Với phương thức thông khí nhân tạo PEEP, áp lực có thể cao nhưng sau khi bỏ máy thở sẽ xuống thấp trong thời gian ngắn. Là một trong những thông số chủ yếu của SDRAA, xác định bản chất tổn thương của phù phổi.
- Ap lực động mạch phổi: có thể bình thường lúc ban đầu nhưng sẽ nhanh chóng xuất hiện tăng áp lực động mạch phổi trước mao mạch, do trong giai đoạn này có hiện tượng co mạch do thiếu Oxy. Trong trường hợp tiến triển không thuận lợi áp lực động mạch phổi sẽ tăng rất nhanh.
- Chỉ số tim: bình thường hoặc tăng (dao động). Nếu chỉ số tim giảm, phải nghĩ đến giảm thể tích lưu hành.
II.6. Các thể tích phổi:
- Dung tích sống giảm, thể tích tồn dư chức năng (CRF) giảm do có nước trong phổi và xẹp phế nang. Ngược lại thể tích đóng (VF) tăng do cac phế nang và tiểu phế quản mất ổn định và có khi tăng hơn cả CRF.
- Ngoài ra còn tiến hành các nghiệm pháp nghiên cứu cơ học hô hấp như: độ dãn nở phổi động lực, độ dãn nở phổi tĩnh và đồ thị thực hiện khi thở vào.
+ Ơ người bình thường: đồ thị thường thẳng, tăng thể tích tỉ lệ thuận với tăng áp lực.
+ SDRAA: đồ thị nghiêng bên phải và thấp, càng thấp khi phổi đã bị xơ hóa.
II.7. Chẩn đoán:
II.7.1. Không có dấu hiệu lâm sàng hoặc sinh vật học đặc hiệu. Nói chung, chẩn đoán dựa vào sự phối hợp của nhiều yếu tố sau đây:
- Hoàn cảnh xuất hiện.
- Không có tiền căn bệnh lý BPCO hoặc suy thất trái.
- Khó thở nhanh, tím tái.
- Những đám mờ rãnh liên thùy và/hoặc 2 bên phế trường.
- PaO2 < 50 mmHg (6,7 KPa) với FiO2/ 60%. PaO2 / FiO2 < 200.
- Ap lực mao mạch phổi < 12 mmHg.
- Độ đàn hồi phổi giảm.
Trong các yếu tố kể trên, PaO2 giảm kém chính xác nhất. Từ năm 1994, quan điểm chẩn đoán SDRAA dựa trên chỉ số PaO2 / FiO2 đã được thay đổi.
II.7.2. Chẩn đoán phân biệt:
- Trong giai đoạn đầu, khi chưa xuất hiện các đám mờ nhu mô phổi rõ rệt, có thể nghĩ đến “lấp mạch phổi”.
- Trước các hình ảnh phù nề, cần chẩn đoán phân biệt với phù phổi cấp do tim (áp lực mao mạch phổi tăng, chỉ số tim giảm).
- Bệnh lý phổi do vi khuẩn: với các thể phù nề là chủ yếu, là bệnh cảnh của SDRAA.
II.8. Tiến triển:
II.8.1. Thuận lợi:
PaO2 tăng nhanh với mức PEEP không > 5 cmH2O và FiO2 = 0,4, hình ảnh phù nề rút lui trong vài ngày. Độ dãn nở phổi tăng.
II.8.2. Không thuận lợi:
Xuất hiện “phổi bị xơ hóa”. Đầu tiên, các đám mờ nhu mô phổi rút lui (trên X.Quang: hình ảnh hầu như bình thường), tưởng rằng bệnh đã khỏi. Nhưng đồng thời với PaO2 giảm, lại xuất hiện các đám mờ “võng mạc nội mô” phối hợp với hình các bóng khí, chủ yếu ở rìa ngoại vi phổi. Thở máy ngày càng trở nên khó khăn. Bệnh nhân thở nhanh, khó thích nghi với máy, cần phải cho nhiều thuốc an thần. Ap lực thở vào đòi hỏi cao. Phương thức thở PEEP trở nên không hiệu quả, PaO2 giảm nặng, phải đặt FiO2 cao. Tuy nhiên PaO2 ngày càng tăng, phổi không thể thông khí được nữa. Đồng thời xuất hiện các biến chứng của thở máy: tràn khí phế mạc, tràn khí trung thất. Ap lực ĐMP rất cao, trong các trường hợp nghiêm trọng gây suy thất phải + gan to.
Trong giai đoạn xơ phổi thường xảy ra bệnh lý phổi do nhiễm khuẩn bệnh viện. Chẩn đoán khó khăn: sốt cao, BC tăng. Hình ảnh X.Quang khó thuyết minh abcès hay hoại tử. Cấy bệnh phẩm giúp xác định nguyên nhân.
Tiên lượng: Xơ hóa lan rộng, tỉ lệ tử vong rất cao. Ơ một số ít bệnh nhân còn sống sót, chỉ có chẩn đoán tổ chức học mới xác định được tình trạng xơ phổi.
II.9. Di chứng:
- Ở bệnh nhân không có xơ hóa lan rộng, mặc dù bệnh cảnh rầm rộ như đã mô tả, nhưng khi lành bệnh di chứng để lại không lớn, ngoại trừ khả năng khuyếch tán CO2.
- Ở bệnh nhân có hiện tượng xơ phổi, khi bỏ máy thở, các hiện tượng bất thường còn tồn tại trong vài tháng. Và đôi khi cũng có thể rút lui một cách đáng ngạc nhiên.
III. ĐIỀU TRỊ:
III.1. Điều trị triệu chứng: Chủ yếu là Oxy liệu pháa + thở PEEP. Ngoài ra, một số thuốc khác và phương thức thở khác nhau cũng được đề nghị
III.1.1. Oxy liệu pháp: Trong SDRAA, thiếu Oxy máu là do hiện tượng ”nối tắt phổi”. Oxy liệu pháp qua ống thông mũi hoặc qua mặt nạ dù với FiO2 cao (=1) đều không hiệu quả và nguy hiểm.
III.1.2. Thông khí nhân tạo với phương thức PEEP:
- Mục đích để duy trì áp lực của thì thở ra trong đường thở cao hơn áp lực khí quyển, nói cho đúng hơn là áp lực tồn dư ở cuối thì thở ra dương tính. PEEP làm mở các tiểu phế quản và phế nang bị bít tắc để tránh xẹp phổi thì thở ra. Thể tích khí trong lồng ngực tăng, CRF tăng, thể tích đóng (VF, vốn cao hơn là CRF trong SDRAA) trở nên thấp hơn. PEEP làm tăng PaO2và làm giảm “nối tắt trong phổi”.
- Nhưng PEEP có thể gây biến chứng hô hấp và tim mạch, hậu quả của tăng áp lực trong lồng ngực (chấn thương do áp lực) và tăng thể tích phổi (chấn thương do thể tích).
+ Biến chứng hô hấp: tràn khí dưới da, phế mạc và nhất là trung thất.
+ Biến chứng tim mạch: tăng thêm các biến chứng về huyết động lực của thở máy. Hoạt động của cả 2 thất đều bị rối loạn:
ú Thất phải: tiền gánh giảm, dòng máu tĩnh mạch trở về giảm do áp lực trong lồng ngực trở nên (+) trong cả 2 chu kỳ thở. Hậu gánh tăng do các mao mạch phổi bị xẹp và bị kéo giật ® dãn buồng thất, vách liên thất phình lên và lấn sang trái (hiện tượng phụ thuộc liên đới thất).ô2
ú Thất trái: Tiền gánh giảm do nhát bóp tâm thu thất phải giảm và hiện tượng phụ thuộc liên đới thất. Hậu gánh giảm và thất trái đẩy máu đi được dễ dàng nhờ áp lực (+) trong lồng ngực.
Những rối loạn về huyết động lực giải thích cho lưu lượng tim giảm ® giảm vận chuyển Oxy trong máu ĐM mặc dù PaO2 tăng.
- Để tránh các hậu quả xấu do PEEP: cần phải tăng lưu lượng tim hoặc giảm áp lực trong lồng ngực với các phương thức thở đặc biệt.
+ Tăng lưu lượng tim: LLT giảm nếu PEEP > 10 cmH2O. Có thể bù đắp bằng:
ú Đổ đầy mạch máu bằng các dung dịch đại phân tử (300 – 400 ml) theo từng mức 5 cm H2O.
ú Sử dụng các thuốc cường giao cảm, nhất là Dopamine làm tăng dòng máu tĩnh mạch trở về bằng co thắt mạch máu (liều thường dùng: 5 – 15 mcg/kg/phút). Trong trường hợp LTT giảm mạnh, có thể phối hợp Dobutamine để giảm khối lượng dịch truyền, đề phòng phù phổi cấp (mặc dù thở PEEP), cũng như tạo thuận lợi cho phổi bị xơ hóa.
(Nhắc lại: dưới tác dụng của PEEP, tăng lưu lượng tim không làm cho “nối tắt phổi” nặng thêm, nhờ 2 hiện tượng: mở lại các phế nang bị xẹp và các mao mạch bị bẹp, hạn chế huyết tương thoát mạch)
+ Các phương thức thở đặc biệt của PEEP:
ú Thở tự nhiên với áp lực dương thở ra liên tục (VS – PEEP hay CPAP).
ú Thở điều khiển ngắt quãng: VCI hay IMV.
ú Thở áp đặt thay đổi (Ventilation imposée variable: VIV) hoặc (MMV: Mandatory minute ventilation)
ú Hỗ trợ áp lực (PS: Pressure support) hoặc “hỗ trợ thở vào” (AI: Aide inspiratoire)
ú Thở thành tia với tần số cao (JVHF: Jet ventilation à haute fréquence hoặc HFJV: High frequency jet ventilation)
III.1.3. Lợi niệu: giống như phù phổi cấp do tim cần rút bớt nước bằng các thuốc lợi niệu có tác dụng mạnh (Furosémide). Tuy nhiên, trong trường hợp phù phổi cấp tổn thương, tác dụng của thuốc ít rõ rệt hơn.
III.1.4. Tăng PaO2 vừa phải: giảm lưu lượng tim thứ phát do giảm thể tích lưu hành có thể là nguyên nhân của giảm vận chuyển Oxy trong máu ĐM mặc dù PaO2 tăng. Mặt khác, giảm lưu lượng tim cũng dẫn đến tái phân phối dòng máu ở phổi. Tuy nhiên, trong các trường hợp tăng TTLH cần phải được điều chỉnh bằng thuốc lợi niệu, bởi vì trong phế nang sẽ tăng một lượng dịch giàu protein và fibrine. Hiện tượng này không những làm cho trạng thái thiếu Oxy tăng thêm lên mà còn tạo thuận lợi cho phổi bị xơ hóa.
III.1.5. Thuốc chống đông: Héparine tĩnh mạch để ngăn ngừa và điều trị hội chứng CIVD. Tác dụng điều trị của Héparine không rõ rệt lắm, do không có vai trò trực tiếp trong cơ chế bệnh sinh của SDRAA. Để phòng ngừa, thường dùng Héparinate calcium hoặc Héparine có TLPT thấp (Faxiparine) tiêm dưới da.
III.2. Các phương thức điều trị đặc biệt:
Nhằm hạn chế các tai biến của thở máy, hoặc trong các thể điều trị không đem lại kết quả với các biện pháp điều trị thông thường, hoặc để đối phó với trạng thái thiếu Oxy trơ có tỉ lệ tử vong cao.
III.2.1. Tỷ lệ I/E đảo ngược: Mục đích tăng thì thở vào dài hơn thì thở ra để tạo nên một PEEP nội tại cũng có lợi ích như PEEP ngoại lai, nhưng với áp lực thấp hơn. Trên thực tế, lợi ích này chưa được chứng minh rõ rệt.
III.2.2. Trạng thái ưu thán có thể chấp nhận được (Hypercapnie permissive): Thực hiện bằng cách hạn chế áp lực thở vào < 40 cmH2O và giảm thể tích khí thường lưu.
III.2.3. Monoxyde azote: phối hợp trong hỗn hợp khí thở vào một lượng nhỏ NO (10 – 20 ppm), có thể làm dãn mạch máu các vùng được thông khí tốt, đôi khi giúp tăng PaO2 một cách đáng kể.
III.2.4. Thanh lọc CO2 ngoài cơ thể: chỉ riêng CO2 được thanh lọc qua một màng phổi nhân tạo, còn cung cấp Oxy được thực hiện bằng một lưu lượng Oxy liên tục, cho thẳng vào khí quản qua một cathéter, bằng thở máy với tần số thấp + PEEP.
b-):-s=;=d][-o[