Register Calendar Member List FAQ
Fibe Design

 
Chợ thông tin thời trang Áo Quần Việt Nam > Trung tâm mua bán - trao đổi > Spam ? Công Nghệ Thông Tin- Phần Công Nghệ Cao Quan Trọng Của Hệ Thống Trang Thiết Bị Y Tế

 
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 12-06-2012, 08:56 AM
vuongthaivan vuongthaivan đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 238
Mặc định Công Nghệ Thông Tin- Phần Công Nghệ Cao Quan Trọng Của Hệ Thống Trang Thiết Bị Y Tế

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Công Nghệ Thông Tin- Phần Công Nghệ Cao Quan Trọng Của Hệ Thống Trang Thiết Bị Y Tế
TSKH Vũ công Lập
Phân viện Vật lý- Y- Sinh học

0.Năm 1879, Giám đốc thư viện quốc gia Mỹ Billing đã trở thành người đầu tiên ứng dụng kỹ thuật tự động vào thông tin y học khi ông dùng phiếu đục lỗ đánh giá y văn. Liền sau đó, năm 1880, Hollerith đã chế tạo ra máy đọc phiếu để sử dụng phiếu đục lỗ trong điều tra dân số, rút gọn đáng kể một loại công việc nặng nề mà trước đây phải kéo dài suốt 3 năm
Ngày nay, người ta xem đó là cột mốc xuất phát của một ngành khoa học mới là Medical Informatics, với định nghĩa tạm được thừa nhận của Andersson, nhà khoa học người Anh, đưa ra vào đầu những năm 70 :”Tin y học là một ngành kiến thức mới về khoa học, kỹ thuật và công nghệ máy tính- thông tin trong mọi lĩnh vực của y học và y tế bao gồm nghiên cứu, giảng dạy, thực hành”. Bởi thế, khi nói tới ứng dụng tin học hay công nghệ thông tin vào y tế, ta không nên chỉ quan niệm đơn giản đó là một loại công việc, mà nên nghĩ tới và xây dựng lên từ một ngành khoa học thực sự, có nội dung và phương pháp luận riêng của nó.
Riêng ở Việt Nam, tin học và công nghệ thông tin được biết tới trong y tế bằng 2 con đường. Thứ nhất, khi làm thống kê, khi lập mô hình, khi giải nhiều bài toán cụ thể, máy tính đã được sử dụng từ lâu như một công cụ đặc biệt hữu hiệu. Các mô hình sinh y học đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong nhiều hội nghị toán học trong nước và quốc tế. Kèm theo đấy, việc sử dụng máy tính điện tử trong công tác thông tin thư viện, trong việc lập các ngân hàng dữ liệu cũng đã mang lại nhiều hiệu quả mới. Thứ hai, khi du nhập các thiết bị y tế công nghệ cao của các nước tiên tiến, vô hình chung các loại máy tính chất lượng cao, các phương pháp tính hiện đại và tinh vi đã nằm sẵn trong hệ thống trang bị y tế. Và như thế, một cách hoàn toàn tự nhiên, các phương pháp tính và xử lý hình, các phương pháp xử lý tín hiệu, kỹ thuật hay phương pháp hệ chuyên gia... đã khá nhanh chóng có mặt ở nước ta, cho dù sự ý thức hay chuẩn bị cho điều đó nhiều khi chưa thật đầy đủ. Đó là chưa kể tới những máy tính cá nhân sử dụng trong công tác văn phòng đã tăng lên khá nhanh chóng trong mọi lĩnh vực. Kết quả là, chúng ta đã có một nền tảng nhất định dù không phải là như ý cho việc ứng dụng và triển khai tin học- công nghệ thông tin trong y học và y tế. Trên nền tảng đó, đã có những ý định phát triển ứng dụng này một cách có hệ thống mà chương trình “ Quản lý trang thiết bị y tế “ một cách thống nhất trên địa bàn toàn quốc có thể nêu lên như một trong những ví dụ mở đầu.
Một bước chuyển căn bản về ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế đã hình thành theo những chủ trương chung của nhà nước ở cấp độ vĩ mô. Với việc hình thành một số mạng LAN và WAN, với việc xây dựng một số WEB SERVER, chúng ta đã tạo nên được một hạ tầng thông tin riêng của ta. Gần đây, việc nối mạng Internet, việc xây dựng Intranet đã đem lại cho hoạt động này những chuyển biến lớn và báo hiệu những diễn biến có thể có tính nhảy vọt trong tương lai.
Trong tình hình ấy, bài báo này là một đóng góp vào việc xác định phương hướng và bước đi trong lĩnh vực đã trình bày ở trên, khi xét công nghệ thông tin là phần công nghệ cao quan trọng trong hệ thống trang thiết bị y tế ở các bệnh viện nói riêng và trong y học cũng như y tế nói chung, khi khảo sát vấn đề trên cơ sở khoa học chứ không phải chỉ nêu lên những nội dung hành động.

1.Loài người vẫn cần và sử dụng thông tin ngay từ khi mới ra đời. Thông tin tồn tại dưới dạng các ký hiệu, sau phát triển thành ngôn ngữ ( nói rồi viết ), thông tin chứa đựng trong các hình ảnh. Thông tin là thiết yếu đối với sự tồn tại và phát triển. Nhưng chỉ từ khi Shanon phát minh ra lý thuyết thông tin và các nhà kỹ thuật chế tạo ra máy tính, người ta mới có thể nói đến thông tin như nói về một vấn đề kỹ thuật. Trước hết, phải có cách tạo ra thông tin, tức là giải quyết vấn đề nguồn tin, rồi chuẩn hoá các tin tức thu được dưới dạng thuận tiện và có tiêu chuẩn để có thể đưa vào máy tính. Tại đây, thông tin được phân loại, lưu giữ, nghĩa là được tổ chức lại theo một tiêu chuẩn nào đó, để có thể cất thuận lợi và tìm nhanh chóng. Cuối cùng, tin tức đó có thể được xử lý nhằm tìm ra những tin mới có ý nghĩa tổng quát hơn, cô đọng hơn, giúp con người đến gần hơn với bản chất sự vật để tìm ra một giải pháp, máy tính trở thành một công cụ trợ giúp việc ra quyết định. Việc xử lý này có thể có nhiều cấp độ hết sức khác nhau, từ các phép tính thông thường và phép tính thống kê, tới các xử lý logic, nhận dạng hay so sánh, hoặc đưa ra những thuật toán mới, tới mức các hệ chuyên gia, và cả trí khôn nhân tạo. Sử dụng tất cả các khả năng đó vào hoạt động bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ dựa trên máy tính và thông tin chính là phần cốt lõi của ứng dụng tin học trong y tế.
Ta lấy một ví dụ. Chẩn đoán bằng phương pháp tia X, một kỹ thuật y tế cơ bản. Thông thường, thông tin thể hiện dưới dạng hình ảnh trên phim X- quang. Phim đó có thể lưu trữ để phục vụ cho những chẩn đoán đối chiếu về sau, nhưng khó tìm lại và chất lượng suy giảm nhanh theo thời gian. Tuy nhiên, tin học có thể giải quyết được khó khăn này, khi số hoá toàn bộ hình ảnh trên phim kia và lưu trữ trong một bộ nhớ có thể gọi ra và đọc bằng máy tính. Một nghiên cứu ở CHLB Đức do C. Greinacher tiến hành năm 1988 đã chỉ ra rằng, ở một bệnh viện 500 giừơng mỗi năm có từ 50 000 đến 150 000 ca chẩn đoán X- quang, nếu lưu trữ dưới dạng phim, sau 2 năm chỉ có 5 % phim có thể tìm thấy và chỉ có 0,8 % số phim còn có ý nghĩa chẩn đoán. Về cơ bản, thông tin đã mất mát gần hết. Nhưng nếu dùng kỹ thuật số hoá như đã nói ở trên thì những khó khăn này sẽ hoàn toàn được khắc phục. Hơn nữa, trên những hình đã được số hoá, người ta có thể thực hiện hàng loạt thao tác xử lý hình ( phóng to- thu nhỏ, cắt hình, đo đạc một số kích thước trong hình...) rất có ý nghĩa cho chẩn đoán mà thông thường trên phim không thể thực hiện nổi. Việc ứng dụng tin học trong chẩn đoán quang tuyến X đã mang lại những kết quả rõ ràng. Những máy X- quang số hoá hiện đại đã được tin học hoá ngay từ thiết kế, và năm 1996, ở Uc đã khánh thành “ bệnh viện không phim “ đầu tiên trên thế giới, nghĩa là bệnh viện xoá bỏ tất cả các máy X- quang truyền thống sử dụng phim, thay vào đó là các thiết bị chụp tia X hoàn toàn số hoá. Đó là Bệnh viện nhi khoa thuộc trường Tổng hợp Sydney, thành lập từ năm 1880.
Quá trình ứng dụng tin học trong y tế đã dẫn tới sự hình thành chuyên ngành “Tin y học” như chúng ta đã nói trong phần mở đầu, một phần của ngành khoa học mới xuất hiện trong những năm 60: “Kỹ thuật y sinh học” ( Biomedical Ingineering ). Tin y học giải quyết hàng loạt nhiệm vụ rất quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy, chẩn đoán, điều trị: Tính và đánh giá hình ảnh, trong đó có cả tái tạo hình ảnh 3 chiều của cơ quan và các cấu trúc sinh lý cũng như bệnh lý ; Ghi và xử lý các tín hiệu sinh học, có sử dụng cả các quy trình toán học thống kê ; Giám sát các chức năng sống chủ chốt của cơ thể kèm cơ chế báo động ; “Chẩn đoán nhờ máy tính “ ( Computer- Diagnose ) ; Mô phỏng các quan hệ sinh lý, bệnh lý và dược lý nhờ các phép tính mô hình ; Lập kế hoạch và mô phỏng trong điều trị ; Điều khiển các thiết bị chẩn đoán- điều trị ; Giải phóng con người khỏi các công việc tính toán, quản trị, văn phòng thông qua việc xây dựng các hệ thông tin bệnh nhân, thông tin bệnh viện ; Đánh giá thống kê các dữ liệu y sinh học phục vụ cho công tác nghiên cứu cơ bản. Trong số những nội dung được nêu lên, có nhiều kết quả nghiên cứu đã trở thành một bộ phận của thiết bị được đem bán như một sản phẩm công nghiệp, có những vấn đề đã được phát triển lên một mức cao hơn hẳn, nhưng cốt lõi của chuyên ngành này, xét từ đào tạo sang ứng dụng, vẫn còn nguyên như vậy.

2. Tuy nhiên, đối với thông tin, vấn đề không phải chỉ là lưu giữ và xử lý, điều quan trọng không kém còn là truyền tải. Việc truyền tin giữa các bộ phận khác nhau trong một bệnh viện, giữa các bệnh viện ngày càng trở thành một đòi hỏi cấp bách. Mà muốn truyền tin thì phải cần có đường truyền, như người ta vẫn truyền tiếng nói, văn bản trong thông tin liên lạc, như người ta vẫn truyền sóng phát thanh và sóng truyền hình. Như vậy, xuất hiện sự tham gia của một công nghệ mới bên cạnh ngành tin học: công nghệ viễn thông. Và kết hợp cả hai ngành với nhau, chúng ta có công nghệ thông tin.
Cũng có thể có một tiếp cận khác. Khi làm việc với máy tính đơn lẻ, chúng ta hay gặp những giới hạn hạn chế khả năng làm việc. Hai giới hạn hay gặp là giới hạn về thời gian (tốc độ tính ) và giới hạn về bộ nhớ. Để khắc phục giới hạn này, lẽ tự nhiên nảy sinh ý tưởng ghép các máy tính lại với nhau, để dùng chung các tài nguyên, để mở rộng bộ nhớ, để tăng thêm khả năng tính. Mạng máy tính đã ra đời như vậy. Và để ghép máy tính, lẽ đương nhiên phải có các đường truyền. Từ các đường truyền đơn giản như dây cáp đồng trục, tới các đường truyền cao cấp như cáp quang, tới khi mở rộng phạm vị địa lý của mạng, sẽ va chạm đến toàn bộ đường truyền của viễn thông, bao gồm cả vi ba và vệ tinh, nghĩa là ta cần sự có mặt của ngành viễn thông. Đến đây công nghệ thông tin xuất hiện.
Tuy cùng có chung tên gọi với các mạng nói chung, các mạng máy tính được sử dụng trong ngành y tế mang theo nhiều nét đặc thù. Chẳng hạn đối với mạng HIS ( Hospital Information System ), ngoài phần quản lý tài chính, nhân sự, vật tư..., một nội dung cơ bản là quản lý bệnh và bệnh nhân, trong đó mã bệnh nhân và mã bệnh cũng đủ trở thành một chủ đề phức tạp. Đối với mạng RIS ( Radiological Information System ) , dữ liệu cơ bản là dữ liệu hình ảnh. Cũng trong nghiên cứu đã trích ở trên, dữ liệu chữ chỉ có tỷ lệ 0,1 % so với dữ liệu hình , và nếu trong bệnh viện mỗi ngày có 120 bệnh nhân được X- quang số hoá thì sinh ra 1 500 Mbyte. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc thiết kế mạng, đặc biệt là các phương tiện nhớ hình và khả năng của đường truyền, nhất là khi mỗi hình được truyền đi truyền lại trong mạng nhiều lần trong những ngày đầu. Cho nên, lực lượng giải quyết các nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế phải được dần dần đào tạo thành lực lượng chuyên ngành riêng, không thể xem đó như một “nghề tay trái” mà có thể làm nghiệp dư được. Về mặt học thuật, chúng ta phải cư xử với công nghệ thông tin y học, cũng giống kỹ thuật y sinh học, như một ngành độc lập, từ đào tạo, nghiên cứu tới ứng dụng. Có như thế mới đảm bảo được sự phát triển cơ bản và lâu dài.

3. Việc ứng dụng tin học và công nghệ thông tin vào trong y tế có ý nghiã khẩn cấp và là một chuyển biến kỹ thuật có tính cách mạng. Thế giới đã nhận ra điều ấy, và chúng ta cũng ý thức rõ điều ấy. Trong tác phẩm “Các mạng đa phương tiện” ( Multimedia Networking ), ở chương 7 phần nói về ngành y tế, tác giả đã phân tích sâu sắc chính sách cải tổ nền y tế Mỹ. Kết luận của phân tích này là: trình độ công nghệ của nền y tế Mỹ là tụt hậu 5- 10 năm so với tất cả các ngành công nghiệp khác, lãng phí do sự tụt hậu công nghệ gây ra trong mỗi năm cỡ 36 tỷ USD, và lý do cơ bản là việc chậm ứng dụng công nghệ thông tin. Thực chất chính sách cải tổ nền y tế Mỹ, theo tác giả cuốn sách, là: về mặt công nghệ- đưa nhanh công nghệ thông tin vào ứng dụng ( năm 1992- 4,5 tỷ USD, năm 1996 tăng lên 6,7 tỷ USD vốn đầu tư cho công việc này ), về mặt tổ chức- trên cơ sở công nghệ thông tin, tổ chức và điều hành ngành y tế như một ngành công nghiệp ( Health Care Industrie ). Những cải tiến theo xu hướng này đã thu được kết quả rõ rệt.
Tại Việt Nam, chúng ta đã xác định mục tiêu cơ bản là tới năm 2020 đạt tới trình độ ngang bằng với các nước trong khu vực ở lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế. Trong các bước đi, chúng ta thực hiện các ứng dụng vào quản lý trước, bao gồm quản lý chung ( kế hoạch, nhân tài, vật lực...) và những quản lý có nét đặc thù của ngành ( bệnh, bệnh nhân, bệnh án, chẩn đoán, điều trị, phòng bệnh, dịch bệnh...), bắt đầu từ một mạng cục bộ và tiếp đó là những mở rộng kế tiếp theo khả năng và nhu cầu. Trong những mạng này, các loại thông tin đa dạng và đặc biệt liên kết chặt chẽ với nhau, được tổ chức và khai thác để phục vụ cho người bệnh, các bác sĩ điều trị cũng như các nhà quản lý bệnh viện. Ngoài những mạng được xây dựng trong các cơ quan điều hành, thời gian qua đã có khá nhiều bệnh viện tổ chức mạng LAN của riêng mình, trong đó người đi đầu là Bệnh viện Nhi Đồng 1, Tp. Hồ chí Minh ( tác giả: BS Vũ Mạnh Tiến ), đi đầu ở miền Trung là bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi ( BS Nguyễn Đệ )...Cho đến nay, các mạng LAN ở các bệnh viện, các viện, các trường đang dần dần trở thành một hiện tượng phổ biến. Cao hơn thế, Sở Y tế Tp. Hồ chí Minh đã khánh thành MEDINET, có thể xem là mạng WAN đầu tiên trong ngành y tế, còn Viện Pasteur Tp. Hồ chí Minh có mạng PASTEUR-NET có chương trình làm việc cho khách hàng từ 18 tỉnh nhằm quản lý tình hình bệnh dịch, chương trình tiêm chủng, thuốc ngừa dịch bệnh..., mạng y tế của Khánh Hoà cũng có thể xem là một điểm sáng trong lĩnh vực này.

Khi triển khai các mạng như vậy, một vấn đề luôn gặp phải là thiếu cán bộ, thiếu nguồn nhân lực. Chỉ riêng ở bệnh viện nhi đồng 1, Tp. Hồ chí Minh, số cán bộ cần có là (1): 2 bác sĩ làm việc theo chế độ bán thời, 1 nhân viên phần cứng, 3 nhân viên lạp trình trung cấp, 6 nhân viên nhập dữ liệu chính ( chủ yếu là nhập- xuất viện ) và 40 nhân viên nhập dữ liệu tại khoa ( làm việc theo chế độ công tác viên ). Theo tính toán của GS Đào Đức Tiến (2), chúng ta phải đào tạo trên cả 2 phương diện: tin học hoá tất cả cán bộ và đào tạo cán bộ chuyên ngành y tế. Số cán bộ ngành y tế cần có thể dự báo là 1200 cán bộ đại học và 11 000 kỹ thuật viên tin học. Số này chắc chắn phải được đào tạo rieng, có thể theo một chương trình có từ 54 đến 60 tín chỉ. Cũng giống như ngành kỹ thuật y sinh học đảm bảo cung cấp kỹ sư và kỹ thuật viên đảm bảo các hệ thống kỹ thuật của ngành và của các bệnh viện, khi đưa tin học và công nghệ thông tin vào y tế và y học, chúng ta cần đội ngũ cán bộ chuyên ngành được đào tạo đúng hướng và đúng nội dung và việc này chỉ có cách là chúng ta tự làm lấy.
Trong khi khẳng định trách nhiệm chủ quan và bản thân cố gắng tối đa, chúng ta cũng cần khai triển công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế theo quan niệm của hệ thống mở, vì tin y học thực chất là một khoa học liên ngành, trong đó có sự thống nhất của tin học, của viễn thông, của sinh học và y học trong một thực thế tống nhất. Trong liên ngành này, y học cần xây dựng bộ phận cốt cán chuyên sâu cho riêng mình, đồng thời đảm bảo vai trò quy tụ để tập hợp chuyên gia các ngành khác thúc đẩy tiến trình công việc. Và do thực chất vấn đề là xây dựng một môn khoa học liên ngành, nên có những lớp học, những đề tài nghiên cứu đủ tầm cỡ để xây dựng lực lượng. Có những lúc, những nơi, chúng ta chỉ thuần túy nhìn thấy mảng dịch vụ của công việc này mà không thấy hết phần khoa học hấp dẫn và phức tạp của nó, điều đó sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng tiềm năng và nội lực.

4. Dù là một ngành khoa học non trẻ đang ở trong giai đoạn nẩy sinh, dù là những dự án có tính tiên phong mới bắt đầu triển khai, trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong y tế đã có những yếu tố ổn định, được kiểm nghiệm trên thế giới đã nhiều năm và cũng đã được ứng dụng có kết quả trong một số đơn vị y tế tại Việt Nam mà các mạng LAN dùng trong quản lý bệnh viện là một minh chứng. Đã đến lúc có thể xem rằng, những mạng này là một bộ phận nằm trong trang bị y tế cơ bản của bệnh viện, và hơn nữa, là một bộ phận công nghệ cao, mang tính chỉ đạo và dẫn dắt.
Chúng ta đã nói tới tính hệ thống của trang thiết bị kỹ thuật trong bệnh viện. Bởi các máy móc y tế không còn hoạt độnh chỉ như một thiết bị biệt lập và riêng lẻ, tính hệ thống cho phép ghép nối và phối hợp nhiều máy y tế để chúng có thể phối hợp và bổ sung cho nhau, nhất là trong hoàn cảnh các thế hệ máy mới ra đời cực kỳ nhanh chóng. Bây giờ, khái niệm hệ thống ấy cần phải mở rộng, lấy sự tương thích khi ghép vào mạng máy tính làm tiêu chuẩn hàng đầu. Trên các hệ máy chẩn đoán và điều trị chứa đựng những thông tin quan trọng và phức tạp nhất về bệnh nhân, những thông tin cần phải đưa vào mạng RIS, do đó, một trong những tiêu chí để chọn mua máy mới là phải tương thích để hoà được vào trong mạng này. Trong tình hình trang bị ở các bệnh viện như hiện nay, việc ghép tất cả các thiết bị y tế vào một mạng duy nhất là điều không đơn giản. Truyền hình ảnh từ một máy siêu âm hay một máy X- quang trên những khoảng cách lớn còn đơn giản hơn việc nối tất cả các máy trong một bệh viện vào một mạng. Đó là chuyện của quá khứ. Còn trong tương lai, việc mua sắm thiết bị mới nhất thiết phải tính đến yếu tố này.
Hiện nay ở mỗi bệnh viện đều đang có sẵn một số máy tính nhất định. Chủng loại và thế hệ của các máy này hết sức khác nhau. Khi thiết lập mạng LAN loại HIS, phải tính toán cẩn thận để vừa tiết kiệm lại vừa hiệu quả, sao cho có thể nâng cấp và sử dụng các máy hiện có trong mạng mới. Tại những nơi chưa lắp mạng, khi mua thêm những máy lẻ có sử dụng những chương trình phần mềm quản lý, phải lưu ý sao cho có những phần mềm thích hợp không phải bỏ đi khi ghép mạng. Có những đơn vị đã thuê viết chương trình nhiều triệu đồng, nhưng khi ghép mạng lại phải bỏ đi rất đáng tiếc. Một mạng cũng có thể có nhiều cấp độ khác nhau và do đó giá thành chênh nhau nhiều lần. Chúng ta cũng nên chọn những giải pháp thực tế đáp ứng đúng những nhu cầu có thực của cơ sở trong giai đoạn đang phát triển. Hơn nữa, vì trong cùng bệnh viện có những mạng chức năng khác nhau, nên có tính toán lâu dài để những mạng đó thống nhất, hỗ trợ cho nhau chứ không loại bỏ nhau trong tương lai hay không gây khó khăn cho nhau khi vận hành.
Vì vai trò của các mạng máy tính trong hoạt động y tế, hoạt động kỹ thuật của các bệnh viện càng ngày càng quan trọng và sẽ sớm trở thành then chốt, nên có thêm một tiếp cận trang thiết bị y tế cho hoàn chỉnh, để bổ sung thêm vào tiếp cận thuần túy công nghệ thông tin như hiện nay.


5.Chúng ta đang ở trong một giai đoạn rất có ý nghĩa của những cách mạng trong kỹ thuật y tế. Khẩu hiệu tin học hoá hay điện toán hoá trước đây hiện đang trở thành khẩu hiệu mạng hoá. Các cơ quan y tế, các bệnh viện , trường học và viện nghiên cứu đang lắp những mạng LAN của riêng mình. Một số nơi đã bắt đầu triển khai mạng WAN. Cổng Internet đã được mở và chúng ta càng ngày càng thấy rõ những tiện lợi của một mạng rộng lớn như vậy. Cũng đã có những đề xuất xây dựng mạng Intranet cho ngành y tế Việt Nam. Vào tháng 5 vừa qua, GS Carpentier, người đã cùng Sở Y tế Thành phố Hồ chí Minh sáng lập viện tim thành phố, đã tuyên bố sẽ thực hiện ca mổ tim từ xa đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1999. Những bước tiến sẽ càng ngày càng dồn dập.
Điều đó không chỉ tác động tới ngành chúng ta như một tổng thể, mà còn tác động đến mỗi chúng ta, trong tác phong và phương pháp làm việc hàng ngày. Một thí dụ nhỏ là trao đổi tin tức. Nhiều cán bộ hiện nay đã quen thuộc với phương pháp sử dụng thư điện tử ( E-Mail ) thay cho các trao đổi qua Fax trước đây, vừa tiện lợi lại vừa rẻ hơn rất nhiều ( lẽ đương nhiên trừ những văn bản phải có dấu và chữ ký ). Trước đây chúng ta đã nêu tiêu chuẩn phải biết sử dụng máy tính trong công tác như một tiêu chí để chọn cán bộ mới, giờ đây tiêu chuẩn ấy sẽ phải đổi thành: phải biết thao tác trên mạng máy tính. Rồi đây, hành loạt thao tác giảng dạy sẽ được thực hiện trên mạng, công tác nghiên cứu sẽ được bắt đầu từ việc truy cứu thông tin trên mạng, chúng ta sẽ không chỉ đến thư viện, mà còn tìm tòi trong cơ sở dữ liệu của mạng. Làm việc trên mạng sẽ là một tất yếu trong công tác chuyên môn và là một thói quen mới trong đời sống hàng ngày. Điều đó mỗi chúng ta sẽ phải tự học, tự tái đào tạo để thích nghi được với sự phát triển. Các lớp học là cần thiết, song tự mỗi chúng ta cũng phải ý thức được điều đó, và thật ra cái tự làm này mới là yếu tố quyết định cho mọi đổi thay.
Trong khi thế giới đã chuyển sang kỷ nguyên thông tin, chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn thế giới vật chất. Chưa phải tất cả chúng ta đã có thể thích hợp với công nghệ mới.Chẳng hạn, giả thử có máy tính và có cổng vào Internet cho tất cả mọi người, nghĩa là mỗi người đều có thể thao tác trong mạng về mặt kỹ thuật, khi đó hiệu quả thu được sẽ rất khác nhau. Vì không phải ai cũng biết tiếng Anh, vì không phải ai cũng tìm được thông tin, vì không phải ai cũng biết sử dụng thông tin một cách hiệu quả... Ngay cả các nước tiên tiến ở châu Âu, đã phải nghiên cứu hàng năm đề xác định các biện pháp cần làm để tham gia Internet một cách có hiệu quả. Cho nên, nhìn rõ cái tất yếu của tiện bộ công nghệ, chúng ta cũng phải có những bước đi thích hợp để khai thác công nghệ ấy ở mức độ tối ưu.

Tài liệu tham khảo

1.Vũ Minh Tiến, Mạng vi tính bệnh viện nhi đồng 1 trong Hệ quản lý thông tin Y tế
Kỷ yếu hội thảo khoa học chuyên ngành “Tin học trong y học”, Nhà xuất bản y học,
Hà Nội, 1997, tr. 236- 240. Và các trao đổi riêng.

2.Đào Đức Tiến, Khởi đầu xây dựng mạng máy tính trong y dược, Tạp chí thông tin y
dược, số 1,2/1998, tr. 5- 9.
Trả lời với trích dẫn


 


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts
vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở

Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 11:23 AM - Diễn đàn được xây dựng bởi SANGNHUONG.COM
© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.