Register Calendar Member List FAQ
Fibe Design

 
Chợ thông tin thời trang Áo Quần Việt Nam > Trung tâm mua bán - trao đổi > Spam ? Y Học Từ Xa_Telemedicine

 
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 12-06-2012, 08:57 AM
tholvt tholvt đang online
Senior Member
 
Tham gia ngày: May 2012
Bài gửi: 255
Mặc định Y Học Từ Xa_Telemedicine

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

Đây là bài giới thiệu đại cương về lĩnh vực y học từ xa(trong số tác giả có thầy Vũ Công Lập).
Tham khảo tại http://203.162.1.204/huongdan/telemedicine/bai1.htm




1. Y học từ xa (Telemedicine) là cung cấp các dịch vụ chǎm sóc sức khỏe giữa những chủ thể bị ngǎn cách về mặt địa lý (E.Coiera 1997) (1). Cụm từ "dịch vụ chǎm sóc sức khỏe" ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả chẩn đoán và điều trị, cung cấp thuốc men và thiết bị, tư vấn và khuyên bảo, dự phòng và phục hồi, bảo hiểm y tế, cũng như những hoạt động cơ bản đảm bảo cho những dịch vụ cụ thể này : giảng dạy, nghiên cứu, thống kê v.v...

Kỹ thuật là để mở rộng những khả nǎng vốn bị hạn chế bởi con người. Một trong những hạn chế đó là hạn chế về mặt không gian. Khả nǎng trước hết để mở rộng tầm hoạt động không gian của con người là sử dụng các kỹ thuật viễn thông, truyền thông tin dưới dạng âm thanh, tín hiệu, hình ảnh vượt qua khoảng cách, Chẳng hạn chúng ta đều biết đến kỹ thuật truyền hình ảnh từ phòng mổ, để có thể quan sát, theo rõi, điều chỉnh ca mổ từ những khoảng cách rất xa.

Y học là một lĩnh vực đặc biệt, trong đó thông tin vừa nhiều, vừa phong phú lại vừa đa dạng về chuyên ngành. Để chẩn đoán cho một bệnh nhân, chúng ta cần thông tin về bệnh sử, thông tin kết quả thǎm khám như : xét nghiệm (xét nghiệm huyết học, sinh hoá, vi sinh, tế bào... ), thông tin về chẩn đoán chức nǎng (Điện tim ECG, điện não EEG, hô hấp...), thông tin về hình ảnh (X-quang, siêu âm, CT, MRI...), thậm chí cả những ngân hàng dữ liệu chứa đựng những tri thức hỗ trợ cho việc ra quyết định. Vì vậy, việc ứng dụng tin học trong y học đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực chủ yếu của tin học ứng dụng (Medical Computing). Khi mạng máy tính ra đời, lập tức xuất hiện các mạng đặc thù dùng riêng cho các bệnh viện : HIS - Hospital information System, RIS - Radiological information System, LIS - Labor information System... Tổng kết ở các nước tiên tiến đều đi đến một kết luận duy nhất: việc ứng dụng các mạng này trong y tế đã tǎng cao một cách đáng kể hiệu quả phục vụ và giảm thiểu chi phí ở tất cả các bệnh viện, nhờ vào việc lưu trữ, xử lý, truyền tải thông tin một cách có hệ thống, nhanh chóng, chính xác.

Một bước tiếp theo tất yếu và logic : kết nối các mạng cục bộ tại từng bệnh viện bằng các đường truyền viễn thông. Sự kết nối này đã đưa tới một sự thay đổi về chất trong phương thức hoạt động của các bệnh viện. Nếu mạng máy tính cho phép ta sử dụng chung tài nguyên của mỗi máy tính, thì kết nối mạng các bệnh viện tạo điều kiện cho chúng ta khai thác chung tiềm nǎng của mỗi bệnh viện ấy: máy móc, chuyên gia, tư liệu, tri thức... Trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin như vậy, y học có được những khả nǎng kỹ thuật mới: ta có thể chẩn đoán hình ảnh từ xa (Teleradiology), tư vấn từ xa (Teleconsulting), hội chẩn từ xa (Telediagnostics, video-conferencing)... Những dịch vụ mở rộng trên nền tảng đó cũng xuất hiện: sự phối hợp theo vùng địa lý, sự phối hợp theo cùng chuyên khoa, sự chǎm sóc các bệnh nhân đặc biệt... Cần nhấn mạnh thêm, bên cạnh việc khắc phục hạn chế về không gian, các mạng máy tính diện rộng trong y học còn cho ta khả nǎng khắc phục cả hạn chế về thời gian và điều này đem lại rất nhiều lợi thế. Đó chính là nội dung và khuôn mặt y học từ xa trong giai đoạn hiện nay.

Chính trên những nền tảng này, đã nẩy sinh ngành khoa học mới với tư cách một giao ngành, cho dù thuật ngữ cụ thể được sử dụng đôi khi có thể khác nhau: Medical informatics, Clinical informatics, information Technology in Health Care... Chúng ta quan tâm tới y học từ xa cả trên phương diện học thuật và cả trên phương diện ứng dụng.

2. Thực chất của y học từ xa hiện nay là ứng dụng công nghệ mạng. Bước một là tổ chức tốt các mạng máy tính trong từng bệnh viện, bước hai là tổ chức đường truyền để kết nối các mạng ấy trong một hệ thống.

Dù quy mô các bệnh viện là hết sức khác nhau, trong từng bệnh viện lại có những chức nǎng cụ thể và những trọng tâm chuyên môn khác nhau, nhưng dòng thông tin và yêu cầu về thông tin ở các bệnh viện về cơ bản là như nhau. Trước hết, đó là dòng thông tin quản lý, liên quan tới quản lý nhân sự, quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất và nhất là quản lý bệnh nhân, phần cơ bản nhất và đặc trưng nhất trong y tế. Thứ hai là dòng thông tin liên quan đến bệnh nhân, trong đó phân ra bệnh nhân nội trú và bệnh nhân ngoại trú, với khu vực cận lâm sàng là khu vực dùng cho cho cả hai dòng bệnh nhân này. Những thông tin tổng quát trong bệnh viện như vậy được chứa đựng trong mạng HIS. Cỡ 60 - 70% thông tin thường được truy cập trong bệnh viện liên quan đến mạng HIS.

Một khoa rất quan trọng trong bệnh viện là khoa chẩn đoán hình ảnh (Radiology - Imaging). Vì đây là điểm nút hầu như tất cả bệnh nhân trong bệnh viện phải đi qua, vì dữ liệu chẩn đoán hình ảnh vừa nhiều lại vừa có tính đặc thù cao, các mạng máy tính liên quan đến khoa chẩn đoán hình ảnh phát triển rất sớm và cũng khá phong phú. Lúc đầu là mạng RIS, giúp cho quản lý điều hành khoa có hiệu quả hơn, như lên lịch hẹn bệnh nhân, tối ưu hoá công tác chẩn đoán... Sau đó phát triển mạng PASC (Picture archiving and Communication System), nhằm lưu trữ, phân phối và truyền hình ảnh, nâng cao chất lượng chẩn đoán. Chính nhờ PACS mà có thể truyền hình ảnh thực hiện chẩn đoán hình ảnh từ xa (Teleradiology). Cũng cần nhấn mạnh rằng, Teleradiology là phần phát triển sớm nhất của y học từ xa, khởi đầu từ những công trình của Jutra & CS (1959) (2) và càng ngày càng lên tới những đỉnh cao mới theo sự hoàn thiện dần của công nghệ đường truyền.

Như vậy, sơ đồ cǎn bản của y học từ xa trong bước khởi đầu có thể là :

Lẽ đương nhiên, nhiều bệnh viện có thể tham gia mạng diện rộng và các sơ đồ kết nối cũng có thể khác nhau.

Hiện nay, ở Mỹ, y tế hành xử như một ngành công nghiệp, trong đó công nghệ thông tin là công nghệ chủ đạo. Trong mạng y tế thống nhất toàn quốc, có sự tham gia đầy đủ của 7 thành viên : các bệnh viện, phòng mạch tư và phòng khám, labor xét nghiệm, các công ty dược, các công ty cung cấp thiết bị y tế, các cơ sở nghiên cứu và đào tạo (R&D), các cơ quan bảo hiểm y tế. Mạng này được gọi là Metropolitan area Network và thực hiện được rất nhiều các dịch vụ từ xa (3). Trong mạng này thống nhất vô số ứng dụng và đòi hỏi sự chuẩn hoá nghiêm ngặt thông tin cũng như áp dụng các công nghệ hiệu quả nhất để đảm bảo tương quan đầu tư - lợi ích. Nǎm 1996 đầu tư cho Công nghệ thông tin y học ở Mỹ là 6,7 tỷ USD.

Để từ xa có thể can thiệp, chẩn đoán, ra quyết định về một ca bệnh bất kỳ, điều trước hết là phải có đầy đủ thông tin về ca bệnh đó. Những thông tin này phải được tổ chức hợp lý, tập hợp lại rồi gửi đi một cách trọn vẹn. Nhiều khi các hình ảnh và dữ liệu của bệnh nhân phân tán theo thời gian, không gian và nằm rải rác . Bởi thế, bài toán về y học từ xa dựa trên bài toán về tổ chức và quản lý hệ thông tin trong bệnh viện.

3. Y học từ xa dựa trên công nghệ mạng là một trong những hướng phát triển mạnh của y học trong những nǎm gần đây. Để đáp ứng những thách thức có tính cách mạng của nền y tế hiện đại và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, đòi hỏi không chỉ những nỗ lực quốc gia mà cần cả những nỗ lực quốc tế, hơn nữa: nỗ lực một cách thống nhất.

Đáng lưu ý là Dự án châu âu HANSA ( Health Advanced Networked System Architecturre - Kiến trúc hệ thống mạng phục vụ sức khoẻ) ( 4 ). Dự án này quan tâm đến một số vấn đề lớn, có tính nguyên tắc : xác định những tiêu chuẩn thiết kế và sơ đồ kiến trúc của HIS, công nghệ Internet, bệnh án điện tử ; chuẩn hoá thông tin và đào tạo nhân lực. Các kiến trúc 3 lớp (hạ tầng cơ sở- phần cứng, ứng dụng- phần mềm và khai thác dịch vụ- y học), kiến trúc 3 chiều (chuyên sâu y học, thích ứng kinh tế và kỹ thuật) cũng như mô hình kiến trúc mở đã được khảo sát và thử nghiệm với nhiều ý kiến ủng hộ thiên về cấu trúc 3 lớp. Từ những nghiên cứu này đã tiến tới những tiền đề cho những tiêu chuẩn hoá về kiến trúc mạng trong bệnh viện, được công bố trong các vǎn bản chính thống của CEN (ủy ban châu âu về tiêu chuẩn hoá- Comitee European de Nomlalisation).

Bệnh án điện tử (EPR -Electronic Patient Record) là một chủ đề vừa hấp dẫn, vừa phức tạp, vừa hết sức thực tiễn lại vừa phong phú về công nghệ. Trong bệnh án của một bệnh nhân có hầu hết thông tin từ mọi nguồn dữ liệu trong bệnh viện: kết quả xét nghiệm, ảnh chụp X- quang, cộng hưởng từ, các phiếu chẩn đoán chức nǎng, kết quả nội soi, kết quả chẩn đoán chung và liệu trình điều trị bao gồm cả thǎm khám lẫn thuốc men- phẫu thuật... kể cả những thông tin cơ bản để tính tiền viện phí. Nếu ban đầu, bệnh án chỉ nhằm phục vụ cho công tác điều trị thì hiện nay, ngoài mục tiêu cơ bản đó, bệnh án còn được xem như là một tài liệu pháp lý về hoạt động y tế trên bệnh nhân, có tác dụng hỗ trợ nghiên cứu (nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dịch tễ, nghiên cứu chất lượng chǎm sóc sức khoẻ, nghiên cứu tác dụng của thuốc), có vai trò quan trọng trong đào tạo, nghiên cứu và cũng có ý nghĩa đối với việc quản lý và điều hành bệnh viện nói chung (lập hoá đơn chứng từ, tính tiền, hỗ trợ nghiên cứu về tổ chức, quản lý giá thành). Chuyển tất cả những thông tin đó thành dữ liệu có cấu trúc là vấn đề rất nan giải. Dự án DIFF của Luxemburg mất 4 nǎm để giải quyết bài toán này, trong đó riêng 18 tháng đầu là xác định nội dung tối thiểu của EPR, 14 tháng tiếp sau là phát triển- tích hợp- hoàn thiện một tập hợp các thành phần phần mềm để có được EPR và cuối cùng là hội nhập-ghép nối với tất cả những thành phần đã có. Hiện nay, đã xuất hiện các bệnh án dưới dạng đa truyền thông (MMR- Multi Media Record) rất hay được sử dụng phối hợp với PACS trong chẩn đoán hình ảnh từ xa.

Các chuẩn thông tin đóng vai trò quan trọng trong các mạng cơ bản phục vụ cho y học từ xa. Tại Mỹ có chuẩn EDI cho y tế ( EDI- Electronic Da ta Interchange ). Tại châu âu; CEN cũng đưa ra những chuẩn tương thích của mình. Chúng ta đã biết một chuẩn khá phổ biến là chuẩn DICOM (Digital Imaging and Communication in Medicine - Hình ảnh và truyền tải số trong y học) dùng cho chẩn đoán hình ảnh. Chuẩn này được dùng trong các thiết bị sinh hình, mạng PACS, các trạm làm việc và các bộ lưu trữ. Tất cả các hãng công nghiệp chế tạo thiết bị y tế đều phải tuân theo chuẩn này. Hay nói một cách khác hơn, chính giới công nghiệp đã xác lập nên các tiêu chuẩn này và hiện họ tiếp tục chia ra 20 nhóm làm việc trong 3 tiểu ban để xác lập những chuẩn mới. Để trao đổi thông tin y tế chúng ta có chuẩn HL 7, có từ nǎm 1987. HL 7 có tới 450 tổ chức thành viên và chiếm tới 65 % lượng thông tin trong bệnh viện. Chuẩn này được dùng trong việc xác lập các dữ liệu liên quan đến bệnh nhân, các kết quả thǎm khám lâm sàng, nhập- chuyển- ra viện, các kết quả xét nghiệm, dùng thuốc... Chuẩn thứ ba là CORBAMED (Common Object Request Broker Architecture). Đây là chuẩn có ưu việt lớn trong nhận dạng nhân sự.

Với tư cách một ngành khoa học độc lập và có những ứng dụng mạnh mẽ, công nghệ thông tin y học - trong đó có y học từ xa, đòi hỏi một đội ngũ cán bộ chuyên ngành được đào tạo cǎn bản, hệ thống. ở Mỹ, Medical Informatics được khẳng định là một nghề riêng biệt ( 5 ). Cộng đồng châu âu đưa ra hẳn một khuyến cáo - R (90) 21 đề nghị chính phủ tất cả các nước thành viên châu âu:

1. Đảm bảo rằng tất cả các thành viên tham gia làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin y học đều được đào tạo liên ngành, cả lý thuyết lẫn thực tiễn
2. Phát triển chiến lược đào tạo riêng cho các hệ thống sức khoẻ cộng đồng
3. Xác lập hệ thống hợp tác quốc tế để tǎng cường trao đổi kiến thức và nguồn tin trong một lĩnh vực mới đang phát triển nhanh chóng. Theo những quan niệm chung thống nhất ấy, đào tạo công nghệ thông tin y học là một thể hoàn chỉnh, từ sơ cấp, tới trung cấp và cao cấp. Sau khi tốt nghiệp, người được đào tạo vừa có khả nǎng hành nghề lại vừa có khả nǎng phát triển. Trong phát triển đảm bảo cả 2 hướng: phát triển về học thuật (học vị, học hàm) và phát triển về tương lai tiền đồ (lương bổng, chức vụ). Về mặt nội dung, đây là lĩnh vực liên ngành và giao ngành giữa y học và tin học. Nói chung những liên ngành như vậy thường là một thách thức lớn đối với các nước đang phát triển hoặc chưa phát triển và rất dễ bị bẻ lệch sang các định hướng đơn ngành (thuần túy y học có chắp vá tin học, hay thuần túy tin học được bổ sung một số kiến thức gọi là về y học). Cũng giống như tất cả các lĩnh vực khác, trong công nghệ thông tin y học, việc đào tạo nguồn nhân lực luôn có ý nghĩa quyết định nhưng lại dễ bị bỏ qua trong những giai đoạn ban đầu.

Một dự án phát triển y học từ xa dựa trên công nghệ mạng cần bao quát toàn bộ những yếu tố có tính chiến lược nêu trên ngay từ nhưng nét phác thảo ban đầu.

4. Trong một chủ đề lớn lao và phức tạp như vậy, bao giờ cũng phải tự chọn cho mình một bước xuất phát hợp lý, vừa khả thi, vừa có hiệu quả lại vừa tạo tiền đề cho sự phát triển liên tục về sau, tiếp cận những công nghệ mới hiện đại nhất. Không có một quy tắc chung nào cho bước khởi đầu này, nhưng thường thì có hai khả nǎng: hoặc xuất phát từ
chẩn đoán hình ảnh, hoặc xuất phát từ quản lý bệnh nhân.

Chẩn đoán hình ảnh từ xa đã trở thành một thí dụ kinh điển và đầy tính thuyết phục cho y học từ xa. Các hình ảnh cần thiết dùng cho chẩn đoán được truyền theo đường viễn thông về những trung tâm lớn có những chuyên gia giỏi. Tại đây, các chuyên gia sẽ đưa ra lời chẩn đoán của mình và kết quả được gửi trở lại nơi có bệnh nhân. Toàn bộ quy trình có thể được tiến hành trực tuyến (on line) hay không trực tuyến (off line), tuy nhiên độ trễ về thời gian nếu có cũng có thể chấp nhận được về mặt y học. Nếu bệnh viện có nhiều máy chẩn đoán hình ảnh- ta gọi là các thiết bị sinh hình (Modalities)- thì trước khi truyền hình ảnh đi, ta tổ chức một mạng PACS tại từng bệnh viện. Bây giờ, công tác chẩn đoán bằng hình ảnh có thể được thực hiện từ bất cứ nơi nào trong bệnh viện: tại vǎn phòng khoa chẩn đoán hình ảnh, tại phòng hội chẩn- giao ban, tại các khoa điều trị, miễn là ở nơi đó có cài đặt một trạm làm việc với phần mềm tương ứng. Nghĩa là những khoảng cách vốn là trǎn trở trong từng bệnh viện cũng đã được khắc phục. Để làm được điều ấy, hình ảnh ở các thiết bị sinh hình phải có chuẩn DICOM, ảnh phải được lấy ra từ đây theo phương thức số hoá, đưa ảnh về một máy chủ rồi từ đó lưu trữ, phân phối về các máy trạm. Công nghệ này giúp nâng cao chất lượng chẩn đoán bằng phương pháp "ý kiến thứ hai" (second opinion). Lẽ đương nhiên, phần cứng của PACS cũng đòi hỏi những yêu cầu xác định, ngoài ra còn có phần mềm quản lý hệ thống cũng như phần mềm chuyên dụng để xem hình, xử lý hình, lưu trữ và phân phối hình. Bước tiếp theo là sử dụng một máy chủ truyền thông để gửi hình từ mạng PACS cục bộ này tới mạng PACS cục bộ ở trung tâm khác, ở bệnh viện khác. Kết quả cuối cùng: ở bất cứ nơi nào có trạm làm việc, không phụ thuộc vào khoảnh cách, chúng ta có thể xem hình, xử lý hình, in hình để hoàn thiện một ca chẩn đoán bằng hình ảnh, giống hệt như ta ngồi ngay bên thiết bị sinh hình.


Nếu trong các thiết bị sinh hình có thiết bị tương tự, lẽ đương nhiên ta phải thực hiện các kỹ thuật số hoá. Nhưng các thiết bị này sẽ rất đắt, nếu đòi hỏi chất lượng cao về hình ảnh. Cho nên, chúng ta nên chọn mua các thiết bị ngay từ đầu tương thích với mạng để tránh các lãng phí về sau.

5. Thời gian qua, ở Việt Nam đã có nhiều cố gắng để thực hiện kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh từ xa. Điều này xuất phát từ đòi hỏi thực tế: nhiều cơ sở y tế đã mua những thiết bị chẩn đoán hình ảnh có giá trị, chủ yếu là CT và đôi khi muốn xin một "chẩn đoán thứ cấp " từ những trung tâm y học lớn có những chuyên gia giỏi, hay đơn thuần chỉ là trao đổi kinh nghiệm, đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu... Nghĩa là chúng ta cần có công nghệ teleradiology. Dự án "Y học từ xa" của Bộ Quốc phòng giai đoạn mở đầu thực hiện vào nǎm 2000 là một nỗ lực đáp ứng nhu cầu đó.


Các thành viên tham gia dự án: bệnh viện Trung ương quân đội 108 (Hà Nội) và Quân y viện 175 (Tp. Hồ chí Minh). Tại mỗi bệnh viện đều thiết lập một mạng LAN kết nối 2 máy chẩn đoán hình ảnh chủ yếu là CT và Siêu âm. Dùng 3 máy tính bình thường làm 3 trạm làm việc: 1 ở máy CT, 1 ở máy Siêu âm và 1 ở phòng giao ban. Nhờ một card mạng và phần mềm tương ứng, hình số hoá được lấy ra từ máy sinh hình và chuyển sang mạng. Các trạm làm việc vừa đảm bảo xem hình (view) , vừa thực hiện chức nǎng hậu xử lý (postprocessing): thay đổi độ rộng cửa sổ, mức cửa sổ - Đảo hình, xoay hình- Khuếch đại soi kính (Magnifying Glass)- Phóng đại hình theo các hệ số hay vùng yêu cầu- Đo khoảng cách và đo góc- Đo tỷ trọng cho từng điểm - Chú thích trên hình- Có thể xem từng hình hay đa hình đồng thời. Hình ảnh lưu chuyển trên mạng theo chuẩn DICOM, nghi thức TCP/IP. Khi cần thiết, có thể ghép TCP/IP vào mạng máy Laser Camera theo chuẩn DICOM và khi đó có thể in phim trên mạng và tiết kiệm được máy in ở các thiết bị sinh hình. (Trước đây mỗi thiết bị sinh hình đều có 1 máy in, sau khi có mạng, chỉ cần 1 máy in phim dùng chung cho tất cả các thiết bị sinh hình). Thông qua một máy chủ truyền thông, toàn bộ hình ảnh cần thiết cho chẩn đoán có thể truyền từ Bệnh viện Trung ương quân đội 108 vào QY viện 175 và ngược lại, đây chính là kỹ thuật cơ bản giúp cho công tác chẩn đoán hình ảnh từ xa.


Nhờ các trạm làm việc, công tác chẩn đoán không chỉ được thực hiện ở bên máy CT hay SÂ như trước đây. Các bác sĩ có thể tham gia chẩn đoán mà không trực tiếp can thiệp vào thiết bị sinh hình. Điều này góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán. Trong mạng LAN, hình ảnh chẩn đoán được tổ chức lại, được lưu trữ và khi cần có thể tìm lại và cho tái hiện hình nhanh chóng, đấy là cơ sở để nâng cao chất lượng của công tác thông tin. Từ đó, hình thành một ngân hàng dữ liệu về hình ảnh và tạo tiền đề cho công tác nghiên cứu, công tác đào tạo ở một trình độ mới. Hơn nữa, ta có điều kiện cân nhắc để chỉ chọn in những phim cần thiết, hoặc phối hợp nhiều máy sinh hình để dùng chung một thiết bị in phim..., dẫn tới tiết kiệm đáng kể trong lĩnh vực in phim, một chi phí tiêu hao khá tốn kém trong bệnh viện hiện nay. Đấy là cái lợi nằm ngay trong bản thân một bệnh viện. Điều quan trọng hơn nữa, là khả nǎng chuyển hình ảnh đi xa, tạm thời chỉ sử dụng đường truyền điện thoại thông thường và các MODEM, tạo khả nǎng chẩn đoán từ xa, hội chẩn từ xa, tư vấn từ xa... góp phần đáng kể nâng cao chất lượng phục vụ người bệnh. Trong giai đoạn ban đầu, một hệ thống như trên không phải là tốn kém.

6. Những ứng dụng của y học từ xa rất phong phú. Trước hết là trong lĩnh vực chẩn đoán điều trị, trong bản thân từng bệnh viện như vừa nêu rõ ở trên. Đặc biệt nhấn mạnh sự phối hợp giữa các bệnh viện, vai trò hướng dẫn của các chuyên gia đầu ngành ở các trung tâm lớn trong hệ thống chỉ đạo tuyến giúp các bác sĩ tuyến dưới được hỗ trợ nhiều hơn khi ra những quyết định cuối cùng. Teleradiology mới chỉ là điểm mở đầu, với Internet và người máy còn có thể thực hiện phẫu thuật qua mạng. Thứ hai, trong lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo: chưa bao giờ cán bộ y học có khả nǎng tiếp cận một hệ thống thông tin nhiều như thế, được tổ chức tốt như thế, phong phú như thế. Hãy tưởng tượng bác sĩ ngồi ở trạm làm việc ngay tại khoa của mình- thậm chí ở một bệnh viện xa xôi- với khả nǎng có được tất cả thông tin về bệnh nhân, cả xét nghiệm lẫn hình ảnh, cả mô tả lẫn định lượng, cả hiện tại lẫn quá khứ- quá khứ gần và quá khứ xa..., rồi bác sĩ lại có thể truy cập đến những thông tin mới nhất liên quan tới trường hợp mình đang quan tâm để tham khảo, đồng thời trực tiếp liên hệ và gửi tư liệu để xin ý kiến các chuyên gia đầu ngành ... Chỉ bằng động tác nhấn chuột Clic- Clic...Tất cả những khả nǎng đó về thông tin giúp bác sĩ vừa nâng cao trình độ, vừa nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế. Đó thực sự là một công nghệ mới trong đào tạo, nghiên cứu và điều trị.

Y học từ xa trên cơ sở công nghệ mạng còn là một công cụ đặc biệt hữu hiệu trong chỉ đạo và quản lý. Trên cơ sở thông tin có thể tổ chức lại dòng công việc sao cho tiết kiệm và hiệu quả, đấy thực sự là quá trình tối ưu hoá, điều khiển bệnh viện theo phương pháp công nghiệp. Cũng nhờ những mạng như vậy, người phụ trách có thể kiểm soát được tình hình ở tất cả các địa bàn, từ đó ra những quyết định kịp thời và chính xác. Với các dịch bệnh người ta đã phát triển những phương pháp riêng để làm công tác dự báo, kiểm soát và phòng chống có hiệu quả.

Với từng người bệnh, có thể sử dụng mạng y học từ xa để xin ý kiến tư vấn của các bác sĩ hay các chuyên gia đầu ngành. Các bệnh nhân cần theo dõi đặc biệt có thể dùng một máy tính xách tay (Laptop) để đảm bảo mối liên hệ thường xuyên với bệnh viện.

Cơ cấu dịch vụ y tế bây giờ cũng không chỉ là các bệnh viện hay các phòng khám riêng biệt, mà là một mạng liên kết theo kiểu liên kết toàn diện, liên kết theo chuyên ngành hay liên kết theo khu vực, có thể chống hiện tượng quá tải và tạo thuận lợi tối đa cho người bệnh ở mọi khu vực.

Trên thực tế, y học từ xa đã mở ra những chân trời mới, cũng như Internet đã thực sự làm thay đổi thế giới.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
 


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts
vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở

Chuyển đến

SangNhuong.com


Múi giờ GMT +7. Hiện tại là 11:23 AM - Diễn đàn được xây dựng bởi SANGNHUONG.COM
© 2008 - 2025 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.